1. Trường hợp không được hưởng di sản thừa kế là quyền sử dụng đất theo pháp luật
Theo quy định của Điều 621 Bộ luật Dân sự năm 2015, những người không được quyền hưởng di sản thừa kế bao gồm:
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, hoặc hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
- Trong trường hợp người có quyền hưởng di sản thừa kế cố ý có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó, họ sẽ không được quyền hưởng di sản. Những hành vi này đã bị Tòa án có thẩm quyền kết án bằng một bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật;
- Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản cũng không được hưởng di sản. Đối với trường hợp này, người bị coi là vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng khi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng làm người để lại di sản lâm vào tình trạng khổ sở hoặc nguy hiểm đến tính mạng. Người chỉ có thể bị tước quyền hưởng di sản khi có đủ cơ sở để khẳng định họ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng. Nếu không có cơ sở, họ vẫn được quyền hưởng di sản;
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế để hưởng di sản cũng bị tước quyền hưởng di sản. Khác với trường hợp xâm phạm đến người để lại di sản, ở đây người thừa kế chỉ bị tước quyền hưởng di sản khi có hành vi xâm phạm đến tính mạng của người thừa kế và nhằm hưởng một phần di sản. Người có các hành vi này phải bị kết án và phải là hành vi cố ý để mất quyền hưởng di sản;
- Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép, hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản. Quyền lập di chúc là quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu khi còn sống. Hành vi cản trở đối với người lập di chúc là hành vi trái pháp luật và sẽ bị tước quyền hưởng di sản. Người có hành vi này chỉ bị tước quyền thừa kế nếu hành vi trái với ý chí của người chết.
Lưu ý: Những người nêu trên vẫn được hưởng di sản nếu người để lại di sản đã biết hành vi của họ và vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.
2. Trường hợp không được hưởng di sản thừa kế là quyền sử dụng đất do bị truất quyền thừa kế
Theo quy định tại Điều 626 Bộ luật Dân sự năm 2015, người lập di chúc có quyền truất quyền hưởng di sản của người thừa kế, như vậy, khi rơi vào trường hợp này, người bị truất quyền sẽ "không được hưởng di sản thừa kế là quyền sử dụng đất".
Truất quyền thừa kế đơn giản là quyết định của người để lại di chúc, biểu thị ý chí của họ không muốn để lại phần tài sản cho một người cụ thể nào đó, và ý chí này được ghi vào di chúc hợp pháp. Điều này là quyền của người để lại di chúc.
Ngược lại, người bị truất quyền thừa kế là người không được hưởng di sản thừa kế theo di chúc. Quá trình truất quyền thừa kế cũng liên quan đến việc chia di sản thừa kế theo quy định tại khoản 3 Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015, mà nói rõ rằng những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước (do đã chết), không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Điều này đồng nghĩa với việc chỉ có một trường hợp duy nhất bị truất quyền thừa kế là do ý chí của người để lại di chúc. Điều này đặt ra như một quyền của họ.
Lưu ý rằng, mặc dù khi bị truất quyền thừa kế, người đó không được hưởng di sản thừa kế theo di chúc, nhưng để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho một số đối tượng yếu thế, quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 vẫn để cho những người được hưởng di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Điều này bao gồm các đối tượng như con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng, con thành niên mà không có khả năng lao động. Những người này vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo quy định của pháp luật.
Xem thêm bài viết: Thủ tục khai nhận di sản thừa kế mới nhất
3. Các tình huống pháp luật về thừa kế đất đai
Tình huống 1:
Ngày 20/10/2021, khi đang tham gia giao thông trên đường, anh A có va chạm với một xe container và bị thương rất nặng. Trên đường đưa anh A đi cấp cứu trên xe cứu thương, anh có trăn trối với 01 bác sĩ và 01 điều dưỡng viên rằng “anh muốn để toàn bộ số tiền tiết kiệm anh có trong ngân hàng Y cho vợ anh là bà B, anh để lại ngôi nhà 03 tầng tại Phường W, quận E, tỉnh R cho chị C (đây là người yêu cũ của anh A). Hỏi, di nguyện của anh A muốn hợp pháp phải thỏa mãn điều kiện nào?
Trả lời:
Theo Điều 629 Bộ luật Dân sự năm 2015, di chúc miệng có thể hợp pháp nếu:
- Nếu tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng;
- Sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.
Điều kiện để di chúc miệng của anh Hà hợp pháp là:
- Anh A thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng;
- Ngay sau khi anh A thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ;
- Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày anh Hà thể hiện ý chí cuối cùng, di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.
Nếu anh A thỏa mãn các điều kiện trên, di chúc của anh có thể được coi là hợp pháp và có hiệu lực sau khi anh mất.
Tình huống 2:
Năm 1970, ông L kết hôn với bà N và có ba người con là A, B và T. Ông L qua đời vào năm 2019 mà không để lại di chúc. Năm 2022, trong cuộc họp giữa ba người con và bà N để thống nhất về phân chia di sản, được xác định là bao gồm quyền sở hữu của ông, bao gồm 02 căn nhà và 300 triệu đồng tiền mặt. Trong quá trình thảo luận, bà N, anh B và anh T đồng thuận về việc phân chia theo hướng "02 căn nhà cho hai người con trai là anh B và anh T, 300 triệu chia đều cho 04 người: bà N, anh B, anh T và chị A."
Tuy nhiên, chị A không đồng ý với phương án này, lập luận rằng, vì là con, nên mọi người con nên được hưởng như nhau. Chị A đề xuất hai người anh của mình phải thanh toán cho mình một phần giá trị tài sản quy đổi thành tiền từ 02 căn nhà. Quan điểm của chị A có đúng không?
Trả lời:
Quan điểm của chị A là chính xác, tuân theo quy định của pháp luật. Theo Điều 651 của Bộ luật Dân sự năm 2015, những người thừa kế cùng hàng sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau. Do đó, chị A, anh B, anh T và bà N, đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất, nên phải được hưởng phần di sản một cách công bằng và đồng đều.
Tình huống 3:
Bà X có chồng là ông Y và 03 người con là A, B, C (đều đã thành niên có khả năng lao động). Đầu năm 2021, bà X qua đời do tai nạn giao thông. Sau lễ mai táng, ông Y tiếp tục quản lý và sử dụng ngôi nhà cùng thửa đất có diện tích 500m2, đây là tài sản riêng của bà X. Cuối năm 2021, ông Y đưa bà H về sống như vợ, chồng. Tuy nhiên, để tránh xung đột, người con đã thống nhất với ông Y về việc phân chia tài sản do bà X để lại. Nhưng ông Y không đồng tình, cho rằng do bà X không có di chúc, vì là chồng, ông Y nên được hưởng toàn bộ di sản thừa kế. Liệu quan điểm của ông Y có đúng theo quy định pháp luật hay không?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 650 Bộ luật Dân sự năm 2015, trong trường hợp người chết không để lại di chúc hoặc di chúc để lại không hợp pháp thì sẽ áp dụng thừa kế theo quy định pháp luật. Trong trường hợp này, bà X không để lại di chúc nên quy định thừa kế theo pháp luật sẽ được áp dụng.
Theo quy định tại Điều 651 Bộ luật Dân sự quy định thứ tự thừa kế. Trong trường hợp của bà X, ông Y, chồng của bà, nằm trong hàng thừa kế thứ nhất cùng với các con A, B, C. Do đó, theo quy định của Bộ luật Dân sự, ông Y và các con sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau.
Như vậy, quan điểm của ông Y về việc ông là người được hưởng toàn bộ di sản của bà X không phù hợp với quy định của pháp luật.
Tình huống 4:
Anh Nam thắc mắc về tình trạng hợp pháp của bản di chúc mà bố ông lập vào ngày 12/01/2021, không được công chứng và chứng thực. Sau khi bố anh Nam qua đời đầu năm 2022, anh trai và chị gái của anh Nam tranh chấp tài sản và yêu cầu chia lại tài sản do bố để lại, vì họ cho rằng bản di chúc không hợp pháp do không có sự công chứng và chứng thực. Anh Nam muốn biết liệu di chúc mà bố anh lập, không có sự công chứng và chứng thực, có hợp pháp không?
Trả lời:
Theo Điều 630 của Bộ luật Dân sự năm 2015, để di chúc được coi là hợp pháp, nó phải đáp ứng các điều kiện sau:
- Người lập di chúc phải minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;
- Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
Về việc di chúc được lập thành văn bản không có công chứng, chứng thực, quy định tại Điều 630, Khoản 4 Bộ luật Dân sự năm 2015 nêu rõ: "Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này."
Do đó, di chúc của bố anh Nam có thể được coi là hợp pháp nếu đáp ứng các điều kiện nêu trên, dù không có sự công chứng và chứng thực. Tuy nhiên, sự tranh chấp giữa anh trai, chị gái và anh Nam vẫn có thể xảy ra, và cần sự giải quyết pháp lý để đảm bảo quyền và lợi ích của mỗi bên.
Xem thêm bài viết: Ủy ban nhân dân xã có công chứng thỏa thuận phân chia di sản thừa kế?