1. Căn cứ pháp luật
2. Quy định pháp luật về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
2.1. Thế nào là tình tiết giảm nhẹ trách nhẹ trách nhiệm hình sự
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là một khái niệm pháp lý trong pháp luật hình sự, được sử dụng để giảm bớt trách nhiệm của người phạm tội. Nó chỉ được áp dụng trong một số trường hợp nhất định được quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS 2015.
Thường thì, việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự sẽ dẫn đến việc giảm án phạt. Tuy nhiên, điều này phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể và quyết định của tòa án. Nếu tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được chấp nhận, thì người phạm tội sẽ gặp ít án phạt hơn so với trường hợp không có tình tiết này.
2.2. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Căn cứ khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bao gồm:
- Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
- Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
- Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
- Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
- Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
- Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
- Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
- Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
- Phạm tội do lạc hậu;
- Người phạm tội là phụ nữ có thai;
- Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
- Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
- Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;Người phạm tội tự thú;
- Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải;
- Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện hoặc điều tra tội phạm;
- Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
- Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
- Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng.
- Như vậy, việc phạm tội lần đầu được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, chỉ có thể áp dụng điều này đối với các tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.
3. Thực tế áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”
3.1. Phạm tội lần đầu là gì?
Căn cứ công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 giải đáp “một số vấn đề nghiệp vụ” quy định:
“Phạm tội lần đầu là từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào. Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau, thì không được coi là phạm tội lần đầu.”
3.2. Tội phạm thuộc trường hợp ít nghiêm trọng
Tội phạm thuộc trường hợp ít nghiêm trọng
Căn cứ công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 giải đáp “một số vấn đề nghiệp vụ” quy định:
“Phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Phạm tội gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù;
- Phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng người phạm tội có vị trí, vai trò thứ yếu, không đáng kể trong vụ án có đồng phạm.
Tòa án chỉ áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 khi có đủ 02 yếu tố “phạm tội lần đầu” và “thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Nếu bị cáo phạm tội lần đầu mà không phải thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc ngược lại phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nhưng lần phạm tội này không phải là phạm tội lần đầu thì không áp dụng điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 (điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015) để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.”
Xem thêm bài viết tại: Phạm tội nào sẽ bị đi tù? Cần làm gì để tránh bị phạt tù
4. Nguyên tắc áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
- Ngoài các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 thì Tòa án có thể xem xét coi tình tiết "đầu thú" là một trong những tình tiết giảm nhẹ. Trường hợp người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS, tòa án có thể xem xét đưa ra quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất hoặc chuyển sang một hình phạt khác nhẹ hơn.
- Trường hợp xử phạt dưới dưới mức thấp nhất toà án phải nêu được lý do và tuân theo những quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) quy định như sau:
+ Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.
+ Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.
+ Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015 nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.
- Các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ đã là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ khi quyết định hình phạt.
- Chỉ được phép tăng, giảm mức hình phạt trong một khung hình phạt: Điều luật quy định khung hình phạt có mức tối thiểu và tối đa tuy theo tính chất, mức độ nguy hiểm của từng tội phạm. Khi tòa án đã xác định bị cáo phạm tội ở khung hình phạt nào, dù có nhiều tình tiết tăng nặng thì họ cũng không bị xử phạt quá mức cao nhất của khung hình phạt đó.
Bạn quan tâm: Sự khác biệt giữa lỗi cố ý và lỗi vô ý trong Bộ luật hình sự
5. Trường hợp không được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Căn cứ khoản 3 Điều 51 BLHS 2015 thì các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Bộ luật Hình sự 2015 là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của chúng tôi về vấn đề tình tết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành. Mọi vướng mắc liên quan đến vấn đề trên hoặc cần hỗ trợ về vấn đề pháp lý khác, quý khách vui lòng liên hệ Luật Ánh Ngọc để được hỗ trợ, giải đáp nhanh chóng. Cảm ơn quý khách hàng đã quan tâm theo dõi bài viết của Luật Ánh Ngọc.