6+ tình huống đặc biệt trong tranh chấp di sản thừa kế
Sau đây là những tình huống về tranh chấp di sản thừa kế:
Tình huống 1
Ông Bình trao đổi: "Ngày 12/01/2021, cha ông Bình đã tạo ra một bản di chúc (viết bằng tay trên tờ giấy A4) giao toàn bộ di sản của mình cho ông Bình. Nhưng bản di chúc này không trải qua quá trình công chứng hoặc chứng thực. Khi bước sang năm 2022, cha ông Bình qua đời, và người anh và chị ruột của ông Bình đưa ra tranh chấp về di sản, đòi chia tài sản mà cha ông Bình đã để lại. Họ lập luận rằng do bản di chúc cha ông Bình tạo ra vào ngày 12/01/2021 không được chứng thực hay công chứng, nên nó không phải là hợp lệ. Ông Bình muốn biết liệu bản di chúc mà cha ông đã viết, mà không có sự công chứng hay chứng thực, liệu có phải là hợp lệ hay không?
Trả lời:
Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện như sau:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình lập di chúc;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật quy định;
c) Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc theo quy định pháp luật;
d) Di chúc của người bị hạn chế về thể chất năng lực hành vi hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực về nội dung;
e) Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định
f) Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng
Theo quy định hiện hành, bản di chúc của cha anh Bình, được soạn thảo bằng hình thức văn bản (được viết bằng tay trên tờ giấy A4) mà không được công chứng hoặc chứng thực, sẽ chỉ được xem xét là hợp lý nếu nó thoả mãn các tiêu chí sau:
- Lúc viết di chúc, người viết phải rõ ràng về tình trạng tinh thần, không bị lừa gạt, sợ hãi hoặc bị ép buộc;
- Di chúc không nên chứa các nội dung trái luật hoặc không phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội; và phải tuân thủ hình thức di chúc như quy định trong luật (Ví dụ, Điều 627 Bộ luật Dân sự 2015 đã nêu rõ về hình thức di chúc rằng: “Di chúc cần phải được soạn thảo dưới dạng văn bản; nếu việc viết di chúc dưới dạng văn bản không khả thi thì di chúc có thể được thực hiện bằng lời nói”).
Tình huống 2
Ngày 20/10/2021, khi đang tham gia giao thông trên đường, anh Nguyễn Văn A đã có va chạm với một xe container bị thương rất nặng, gãy chân và chấn thương sọ não. Trên đường đưa anh đi cấp cứu trên xe cứu thương, anh có trăn trối lại trước 01 bác sĩ và 01 điều dưỡng viên rằng “anh có di nguyện để toàn bộ số tiền tiết kiệm anh có trong ngân hàng MB cho vợ anh là bà Nguyễn Thị B, anh để lại ngôi nhà 02 tầng tại Phường M, quận T, tỉnh Đ cho chị (người yêu cũ của anh Hà). Hỏi, di nguyện của anh Hà muốn hợp pháp phải thỏa mãn điều kiện nào?
Trả lời:
Theo Điều 629 và khoản 5 Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015, di chúc miệng chỉ được phép khi một người đứng trước nguy cơ mất mạng và không thể viết được. Sau ba tháng từ lúc lập di chúc miệng, nếu người đó vẫn còn sống và tỉnh táo, di chúc đó tự động bị coi là không còn giá trị.
Cụ thể về việc thực thi di chúc miệng, người lập di chúc cần phải thể hiện ý định cuối cùng của mình trước ít nhất hai nhân chứng. Các nhân chứng này sau đó phải ghi lại, ký tên hoặc đánh dấu, và trong vòng 05 ngày làm việc, di chúc phải được xác minh bởi một công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền.
Tổng hợp lại, di chúc miệng của anh Hà sẽ hợp lệ nếu:
- Anh A thể hiện ý chí cuối cùng trước hai người làm chứng mà không vi phạm Điều 632 về điều kiện của nhân chứng;
- Các nhân chứng ghi chép và ký tên/đánh dấu ngay sau khi anh A thể hiện ý chí cuối cùng của mình;
- Và cuối cùng, trong 05 ngày làm việc, di chúc phải được một công chứng viên hoặc cơ quan thẩm quyền xác nhận.
Nếu di chúc của anh A đáp ứng đủ các điều kiện này, nó sẽ được xem xét là hợp pháp và có hiệu lực sau khi anh A qua đời.
Tình huống 3
Trước khi chết, cha của anh Nguyễn Hoàng M đã lập di chúc với nội dung phân chia tài sản cụ thể như sau: 300 triệu tiền mặt chia đều cho anh M, chị T , chị Đ (chị gái của anh M) mỗi người 100 triệu; ngôi nhà cấp 4 và thửa đất 200 m2 nơi cha anh M sinh sống trước lúc chết được dùng vào việc thờ cúng, giao cho anh M quản lý, trông coi và thờ cúng ông bà tổ tiên sau này.
Tuy nhiên, hiện nay do công việc làm ăn buôn bán không thuận lợi, anh M bàn bạc với chị Tvà chị Đ chia một phần thửa đất 200 m2 nêu trên cho anh để anh bán đi trả nợ nần đang vay ở ngoài. Chị T và chị Đ không đồng ý với ý kiến của anh M và phản đối về vấn đề này. Hỏi việc anh M yêu cầu chia thừa kế đối với phần di sản dùng vào việc thờ cúng nêu trên có được hay không? Nếu được thì phải làm như thế nào?
Trả lời:
Trong bản di chúc của bố anh M, ông ghi rõ rằng căn nhà một tầng và miếng đất có diện tích 200 m2 sẽ được sử dụng cho mục đích thờ tự. Dựa vào Điều 645 khoản 1 Bộ luật Dân sự 2015: Nếu một phần di sản được dành riêng để thờ cúng trong di chúc, tài sản đó không nên được phân chia. Phần di sản này sẽ được giao cho người được chỉ định trong di chúc để quản lý và tổ chức việc thờ cúng. Nếu người được chỉ định không tuân thủ di chúc hoặc không đạt được sự đồng thuận từ người thừa kế, những người thừa kế có quyền giao phần di sản đó cho người khác để tổ chức việc thờ cúng…, căn nhà một tầng và miếng đất 200 m2 không nên được phân chia trong quá trình thừa kế. Việc anh M đòi chia miếng đất 200 m2 không phù hợp với quy định này.
Bố anh M đã chỉ định anh là người quản lý căn nhà một tầng và miếng đất 200 m2 để tổ chức lễ thờ tự. Nếu anh M không tuân theo những gì được ghi trong di chúc, thì chị T và chị Đ đều có quyền giao căn nhà một tầng và miếng đất 200 m2 cho một người khác để thực hiện nghi lễ thờ tự.
Xem thêm bài viết: >> Thủ tục khai nhận di sản thừa kế mới nhất
Tình huống 4
Ông Hà Minh Đức có năm đứa con: bà Hà Thị Mai, bà Hà Thị Thu, bà Hà Thị Hoa, ông Hà Minh Tâm, và ông Hà Minh Tuấn. Bà Mai có hai con trai: anh Phạm Văn Đông và anh Phạm Văn Tây. Bà Hà Thị Mai qua đời vào năm 2018. Đến năm 2021, ông Đức cũng mất, mà không để lại bản di chúc. Trong cuộc họp gia đình, ông Tâm lên tiếng cho rằng chỉ bốn đứa con còn sống của ông Đức, bao gồm bà Hà Thị Thu, bà Hà Thị Hoa, ông Hà Minh Tâm, và ông Hà Minh Tuấn, mới có quyền thừa kế tài sản mà ông Đức để lại. Tuy nhiên, anh Tây không đồng tình với quan điểm này, bởi anh cho rằng mẹ anh là bà Mai đã mất trước ông Đức, nên anh và anh Đông đều có quyền thừa hưởng phần di sản của ông Đức.
Trả lời:
Điều 654 Bộ luật Dân sự 2015 nói rằng: Nếu con của người có tài sản thừa kế mất trước hoặc đồng thời với người có tài sản, thì con của con đó sẽ được nhận phần tài sản mà cha mẹ họ phải thừa kế nếu còn sống; nếu con của con cũng mất trước hoặc đồng thời với người có tài sản, thì cháu của họ sẽ nhận phần tài sản mà cha mẹ của cháu phải thừa kế nếu còn sống.
Dựa vào hoàn cảnh trên, bà Mai là đứa con của ông Đức và đã qua đời trước ông Trọng. Do vậy, anh Đông và anh Tây (là con của bà Mai) sẽ thừa kế phần tài sản mà bà Mai sẽ thừa kế nếu bà còn sống. Vì vậy, ý kiến trên là đúng theo điều luật.
Tình huống 5
Ông M mất năm 2021. Ông có ba người con trong đó có một người con là trẻ sơ sinh. Di sản ông để lại có một mảnh đất rộng 500m2. Hai người con còn lại cho rằng em mình - đứa trẻ sơ sinh kia không có quyền hưởng thừa kế.
Trả lời:
Theo Điều 613 Bộ luật Dân sự 2015, quyền thừa kế không bị giới hạn bởi độ tuổi, vì vậy trẻ sơ sinh vẫn có quyền hưởng thừa kế đất đai và tài sản khác về quyền di sản. Tuy nhiên, vì trẻ sơ sinh chưa đủ năng lực hành vi dân sự để quản lý và sử dụng di sản của họ, phần di sản mà trẻ sơ sinh được hưởng sẽ do người giám hộ của trẻ quản lý và bảo vệ cho đến khi đứa trẻ đó trưởng thành và có đủ năng lực hành vi dân sự để quản lý di sản của mình.
Tình huống 6
Trước khi chết, bà A để lại di chúc với nội dung như sau: căn nhà cấp 4 rộng 100m2 cho anh B, 300 triệu tiền mặt cho chị C. Trước đây anh B từng có nhiều hành động đe dọa giết cũng như đánh đập bà A nên chị C cho rằng anh B không có quyền hưởng di sản thừa kế mà bà A để lại cho anh.
Trả lời:
Việc người chết để lại di chúc trước khi chết luôn được Nhà nước và pháp luật tôn trọng và bảo vệ, bởi vậy, những quyết định trong di chúc sẽ được tôn trọng, nếu bậc phụ huynh vẫn quyết định cho người con có ý định giết cha mẹ hưởng di sản thừa kế thì người con đó vẫn có quyền hưởng di sản thừa kế như trong di chúc.
Trên đây là toàn bộ Những tình huống đặc biệt trong tranh chấp di sản thừa kế: Con riêng, Di sản ẩn, và khác. Nếu Quý khách có thắc mắc hoặc cần được hỗ trợ, hãy liên hệ với Luật Ánh Ngọc để được hỗ trợ và tư vấn kịp thời.