Luật Ánh Ngọc

Giao dịch dân sự vô hiệu: Hậu quả pháp lý và giải quyết tranh chấp

Tư vấn luật dân sự | 2024-03-16 13:57:37

1. Giao dịch dân sự vô hiệu là gì?

 

Giao dịch dân sự vô hiệu là gì?

1.1. Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu

Trong đời sống hằng ngày, bất kỳ ai trong số chúng ta luôn phải xác lập rất nhiều các giao dịch dân sự nhằm phục vụ cho cuộc sống hằng ngày, chẳng hạn như dùng tiền để mua thức ăn, mua sách vở, thực hiện công việc để được trả lương….đây đều là chúng ta có ý chí tự nguyện thực hiện, tự nguyện bỏ tiền ra để trao đổi lấy một món hàng nhất định. Vì vậy, có thể hiểu giao dịch dân sự là sự thể hiện ý chí một cách tự nguyện của các chủ thể trong quan hệ dân sự thông qua hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.

Trong từ điển tiếng Việt, “vô hiệu” tức là không có hiệu lực, do vậy có thể hiểu giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch dân sự không có hiệu lực, vì vậy khi có xảy ra tranh chấp, những thỏa thuận trong giao dịch dân sự bị vô hiệu sẽ không được sử dụng để giải quyết vấn đề xảy ra.

1.2. Các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu

Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, giao dịch dân sự sẽ bị vô hiệu nếu như giao dịch này không thỏa mãn được tất cả các điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực được quy định tại Điều 117 Bộ luật dân sự (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác). Các điều kiện này bao gồm:

Bộ luật dân sự đã quy định các loại giao dịch dân sự phù hợp với từng lứa tuổi, từng trường hợp là người mất năng lực hành vi dân thì giao dịch dân sự của họ được thực hiện như nào tại Điều 20, 21, 22, 23, 24 Bộ luật dân sự. Với chủ thể là cá nhân thì năng lực pháp luật dân sự có từ khi sinh ra nên ta chỉ xét đến năng lực hành vi dân sự có phù hợp với giao dịch được xác lập không. Nếu không phù hợp thì giao dịch dân sự đó sẽ bị vô hiệu.

Chẳng hạn: A (17 tuổi) đã tự ký hợp đồng mua bán đất cho B (30 tuổi), mảnh đất này là do A sở hữu vì được ông nội tặng cho. Theo quy định tại Điều 21 Bộ luật dân sự 2015, đối với người từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi xác lập giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý. Với trường hợp của A, A đã tự mình thực hiện giao dịch (bằng hợp đồng) với B mà không có sự đồng ý của bố mẹ nên hợp đồng giữa A và B sẽ không có hiệu lực vì vi phạm điều kiện chủ thể tham gia giao dịch dân sự.

Điều kiện này thể hiện nguyên tắc tự nguyện, tự do thỏa thuận trong luật dân sự của nước ta. Với điều kiện này, các bên tham gia giao dịch dân sự phải là tự mình muốn mà không phải bị bắt buộc, thúc ép hoặc bị lừa dối. Nếu vi phạm điều kiện này, giao dịch dân sự đó là giao dịch dân sự vô hiệu.

Chẳng hạn: A nợ B 20 triệu và thỏa thuận sẽ trả trong vòng 6 tháng, tuy nhiên thấy đến tháng thứ 5 rồi mà A vừa trả được 13 triệu, do nghi ngờ A không muốn trả mình nên B đã đến nhà A đe dọa A phải bán cho mình 01 con bò cái của nhà A với giá tương đương với số tiền còn nợ, nếu không thì B sẽ thuê người đến đập phá nhà cửa. Mặc dù A không muốn bán vì đàn bò chưa có nhiều, A muốn để con cái lại để sinh sản, hơn nữa giá trị nếu bán thì sẽ cao hơn số tiền còn nợ, nhưng vì sợ B thuê người đến nhà mình đập phá nên A phải bán cho B con bò này để trừ nợ. Ở đây ta thấy việc A bán bò cho B để trừ nợ không có sự tự nguyện nên giao dịch dân sự này giữa hai bên sẽ bị vô hiệu.

Nội dung của giao dịch dân sự là toàn bộ các thỏa thuận mà các bên đã thống nhất nhằm xác định các quyền, nghĩa vụ của các bên sẽ phát sinh.

Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch.

Nội dung và mục đích này không được vi phạm những quy định mà pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện và không vi phạm những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng, nếu vi phạm thì giao dịch dân sự sẽ bị vô hiệu.

Ví dụ như A bán cho B, nội dung thỏa thuận về giá tiền đất thì hai bên đã ghi giá trên hợp đồng ít hơn so với thực tế trao đổi bằng miệng để nhằm mục đích trốn thuế, điều này bị coi là vi phạm điều cấm của luật, nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước.

Giao dịch dân sự có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Tuy nhiên, điều kiện về hình thức của giao dịch dân sự không phải là điều kiện bắt buộc đối với mọi giao dịch dân sự mà chỉ áp dụng với những giao dịch nào mà luật quy định là buộc phải tuân theo như phải lập thành văn bản, phải có chứng nhận, chứng thực hoặc đăng ký tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Đối với các trường hợp pháp luật quy định phải theo một hình thức nào đó mà các bên thực hiện giao dịch không tuân theo thì giao dịch đó là vô hiệu.

Ví dụ: Luật đất đai năm 2013 quy định những hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực, đây là quy định bắt buộc về hình thức. Hợp đồng cũng là một loại giao dịch dân sự, vì vậy nếu hợp đồng này không được công chứng hoặc chứng thực tại cơ quan có thẩm quyền thì sẽ không có hiệu lực, là hợp đồng vô hiệu.

Xem thêm >>: Khi mua đất bằng giấy tờ viết tay có được không

Vậy là, nếu không có đủ các điều kiện trên thì giao dịch dân sự sẽ bị vô hiệu, thiếu các điều kiện sẽ tương ứng mới những loại vô hiệu như: 

2. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu

 

Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu

Giao dịch dân sự được xác lập sẽ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên từ thời điểm xác lập, vì vậy khi giao dịch đó bị vô hiệu sẽ không còn làm phát sinh các yếu tố này nữa, nên hậu quả sẽ như sau:

2.1. Các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu như trước khi giao dịch

Khi giao dịch dân sự vô hiệu, các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu đầu như khi chưa xác lập giao dịch, cho nên nếu giao dịch chưa được thực hiện thì thì các bên không được thực hiện giao dịch đó.

Nếu giao dịch đã được thực hiện toàn bộ hay một phần thì các bên không tiếp tục thực hiện nữa và phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận của nhau, không hoàn trả được bằng hiện vật thì tính trị giá thành tiền để hoàn trả. Có thể thấy, việc hoàn trả bằng hiện vật sẽ được ưu tiên, khi không thể trả bằng hiện vật thì mới quy ra và trả bằng tiền. Trong thực tế, nhiều khi tài sản không còn nguyên vẹn như khi giao nhưng tài sản chính vẫn còn thì vẫn phải trả, phải nhận, được bổ sung bằng việc thanh toán cho nhau những chi phí hợp lý.

2.2. Về hoa lợi, lợi tức có được khi đã thực hiện giao dịch dân sự

Như đã đề cập, không phải giao dịch nào cũng vô hiệu ngay từ khi mới xác lập, có nhiều trường hợp sau khi thực hiện được 1 phần hoặc toàn bộ giao dịch mới phát hiện là giao dịch đó bị vô hiệu, cho nên, cùng với việc đã thực hiện giao dịch thì các bên có thể đã được hưởng hoa lợi, lợi tức phát sinh từ việc thự hiện giao dịch đó.  Khi giao dịch dân sự vô hiệu, đối với bên ngay tình (là bên không có lỗi, không biết được là giao dịch này bị vô hiệu) trong việc thu hoa lợi, lợi tức thì không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đã nhận được.

Ví dụ: A bán nhà cho B, B đã thanh toán hết cho A số tiền đã thỏa thuận. Sau đó B đã cho họ thuê lại ngôi nhà với số tiền là 10 triệu đồng/tháng. Sau một năm, A và B đã các định hợp đồng mua bán nhà là vô hiệu do khi A bán là bị bên thứ ba bắt buộc vfa B không hề biết việc này, B ngay tình. Như vậy số tiền lợi tức là số tiền mà B cho thuê ngôi nhà một năm là 120 triệu đồng sẽ không phải trả lại cho A khi mà hoàn trả nhà và A trả lại cho B số tiền đã mua ban đầu.

2.3. Về việc bồi thường thiệt hại

Với vấn đề bồi thường thiệt hại trong trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu sẽ xác định theo hướng là bên nào có lỗi gây ra thiệt hại thì mới phải bồi thường. Khi giao dịch dân sự vô hiệu, nếu các bên có yêu cầu giải quyết bồi thường thì Tòa án có trách nhiệm xác định thiệt hại. Với nguyên tắc là chỉ phải bồi thường thiệt hại khi có thiệt hại xảy ra, không có thiệt hại thì không có trách nhiệm bồi thường. Đồng thời để xác định được cụ thể mức bồi thường thì cần phải xác định được giá trị của tài sản trong giao dịch. Trong việc xác định lỗi, có thể tồn tại lỗi của một bên hoặc lỗi của hai bên. Trong trường hợp tồn tại lỗi của hai bên làm cho giao dịch dân sự vô hiệu thì phải xác định mức độ lỗi của các bên để thấy được thiệt hại cụ thể để quy trách nhiệm bồi thường tương ứng theo lỗi của mỗi bên. 

Vấn đề bồi thường thiệt hại khi hợp đồng dân sự vô hiệu có thể là thuộc trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hoặc cũng có thể theo như trong hợp đồng nếu như trong giao dịch đã thỏa thuận đến vấn đề này.

3. Giải quyết tranh chấp liên quan đến giao dịch dân sự vô hiệu

 

Giải quyết tranh chấp liên quan đến giao dịch dân sự vô hiệu

Các tranh chấp liên quan đến giao dịch dân sự vô hiệu có thể là tranh chấp yêu cầu Tòa án tuyên giao dịch dân sự vô hiệu, tranh chấp về bồi thường thiệt hại khi giao dịch bị tuyên vô hiệu, tranh chấp về việc hoàn trả sau khi giao dịch dân sự vô hiệu,…

Để giải quyết tranh chấp này, các bên có thể tự thỏa thuận với sau về cách thức hoàn trả, mức bồi thường thiệt hại, ai là người bồi thường thiệt hại,…

Trường hợp các bên không thể thỏa thuận được với nhau thì có thể khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết, có thể là yêu cầu tòa án tuyên giao dịch dân sự vô hiệu, yêu cầu Tòa án ra quyết định cưỡng chế người có nghĩa vụ phải bồi thường, tuyên các mức bồi thường, các hình thức,…Bởi vì, một khi yêu cầu tòa án giải quyết và có quyết định giải quyết có hiệu lực của pháp luật, thì các bên bắt buộc phải thực hiện như nội dung bản án, quyết định của tòa án, nếu không thực hiện Tòa án sẽ có các biện pháp để buộc họ phải thực hiện. điều này sẽ đảm bảo cho việc người có quyền, lợi ích bị xâm phạm được bảo vệ tối đa nhất. Việc yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu phải đảm bảo còn trong thời hiệu yêu cầu (02 năm).

Trên đây là tư vấn của Luật Ánh Ngọc về trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu, hậu quả pháp lý và cách giải quyết tranh chấp. Mọi thắc mắc xin vui lòng liên hệ đến Công ty Luật Ánh Ngọc để được đội ngũ luật sư nhiều năm kinh nghiệm trên các lĩnh vực pháp luật khác nhau giải đáp cho mình.

 


Bài viết khác