1. Hợp đồng dân sự vô hiệu là gì?
Hợp đồng dân sự vô hiệu là gì?
Trước khi đi vào làm rõ khái niệm “hợp đồng dân sự vô hiệu”, chúng ta cần phải hiểu “hợp đồng” có nghĩa là gì.
Theo Điều 385 Bộ luật Dân sự năm 2015, hợp đồng có nghĩa là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.
Tiếp đó, Điều 122 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định rằng nếu hợp đồng không có một trong các điều kiện quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác. Như vậy, từ quy định này có thể hiểu và rút ra được khái niệm của hợp đồng dân sự vô hiệu như sau:
Hợp đồng dân sự vô hiệu là hợp đồng không đáp ứng được các quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng nên không có giá trị pháp lý và do đó bị coi là vô hiệu.
Xem thêm bài viết: Đơn phương chấm dứt hợp đồng: Xử lý và giải quyết theo quy định
Vậy các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 là những điều kiện nào? Theo Điều 117 Bộ luật dân sự năm 2015, hợp đồng dân sự sẽ có hiệu lực khi đáp ứng đủ các điều kiện sau:
Thứ nhất là điều kiện về chủ thể tham gia giao dịch dân sự: chủ thể tham gia giao dịch phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập. Chủ thể tham gia giao dịch dân sự ở đây có thể là cá nhân hoặc pháp nhân. Nếu chủ thể là cá nhân thì phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, phải nhận thức, làm chủ được hành vi của mình cũng như tự chịu được trách nhiệm về mọi hành vi của bản thân trong suốt quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng dân sự. Các cá nhân tương ứng với mức độ năng lực hành vi dân sự của mình thì sẽ được tham gia vào các giao dịch dân sự phù hợp với độ tuổi. Tiếp đó, nếu chủ thể là pháp nhân thì việc tham gia giao dịch dân sự sẽ thông qua người đại diện của pháp nhân đó.
Thứ hai là điều kiện về sự tự nguyện khi tham gia giao dịch dân sự: chủ thể tham gia giao dịch dân sự phải hoàn toàn tự nguyện, việc tham gia giao dịch phải xuất phát, bắt nguồn từ sự mong muốn và ý chí của bản thân chủ thể. Các chủ thể tham gia giao dịch dân sự phải có sự tự thân thể hiện, bày tỏ hết những quan điểm của mình một cách thoải mái, tự nguyện đồng thời có quyền lên tiếng quyết định về việc có tham gia hay không tham gia vào các giao dịch dân sự, có quyền được pháp luật bảo vệ khỏi sự cưỡng ép, đe dọa từ các chủ thể khác.
Thứ ba là điều kiện về mục đích và nội dung của giao dịch dân sự: mục đích mà các bên hướng tới, mong muốn đạt được và các điều khoản mà các bên xác lập trong bản hợp đồng không được vi phạm điều cấm của luật, đồng thời không trái đạo đức xã hội. Các bên có thể được tự do, thoải mái trong việc quyết định, thành lập các điều khoản của hợp đồng. Tuy nhiên ý định hình thành trong hợp đồng và các điều khoản mà các bên viết ra không được phạm phải vào những điều mà pháp luật cấm không được phép làm và cũng không được đi ngược lại những quy tắc ứng xử mang tính đạo đức truyền thống của dân tộc.
Thứ tư là điều kiện về hình thức của giao dịch dân sự: nếu như trong trường hợp luật có quy định thì điều kiện về mặt hình thức là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Có thể thấy rằng trong một số trường hợp nhất định pháp luật bắt buộc về yếu tố hình thức trong hợp đồng (ví dụ như hợp đồng mua bán đất thì bắt buộc phải có công chứng, chứng thực), nếu như các bên không tuân thủ và vi phạm quy định của pháp luật về mặt hình thức thì giao dịch dân sự đó sẽ không có hiệu lực, tức là không có giá trị pháp lý.
Như vậy, nếu không đáp ứng được 04 điều kiện có hiệu lực trên thì hợp đồng dân sự sẽ bị vô hiệu.
2. Nguyên nhân dẫn đến hợp đồng dân sự bị vô hiệu
Theo quy định từ Điều 123 đến Điều 130, Điều 407 và Điều 408 của Bộ luật Dân sự năm 2015, có chín nguyên nhân dẫn đến việc hợp đồng dân sự bị vô hiệu. Những nguyên nhân đó là:
Thứ nhất, hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội (Điều 123). Điều này có nghĩa là hợp đồng dân sự sẽ bị vô hiệu nếu như nội dung, mục đích của hợp đồng phạm phải vào những quy định mà pháp luật cấm không cho phép chủ thể được làm hay thực hiện. Đồng thời, nếu như mục đích, nội dung của hợp đồng trái lại, đi ngược lại với những quy tắc ứng xử truyền thống về đạo đức của xã hội, đi ngược lại với những quan điểm tốt đẹp được cộng đồng xã hội tôn trọng và thừa nhận thì hợp đồng dân sự cũng bị vô hiệu. Một ví dụ về hợp đồng dân sự vô hiệu do trái đạo đức xã hội: Anh A ký hợp đồng trao đổi quyền lợi với chị B. Theo đó, anh A sẽ đưa cho chị B số tiền là 300.000.000 đồng nếu như chị B đồng ý, chấp nhận làm bạn gái và đáp ứng mọi nhu cầu của anh A trong 2 năm. Hợp đồng này sẽ bị vô hiệu do trái đạo đức xã hội.
Thứ hai, hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo (Điều 124). Hợp đồng dân sự được xác lập giả tạo là hợp đồng được hình thành nên không đúng với ý chí của các bên chủ thể, các chủ thể tham gia ký kết hợp đồng biết việc ký kết hợp đồng đó là không đúng trên thực tế nhưng vẫn tham gia ký kết với nhau. Hợp đồng giả tạo này thường được xác lập với mục đích trốn tránh nghĩa vụ đối với pháp luật hoặc các bên xác lập hợp đồng nhưng không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên từ trong hợp đồng. Có hai loại hợp đồng dân sự giả tạo, đó là: hợp đồng dân sự được xác lập nhằm che giấu một hợp đồng khác và hợp đồng dân sự được xác lập nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba. Trong đó, hợp đồng dân sự được xác lập nhằm che giấu hợp đồng khác thì hợp đồng được xác lập giả tạo sẽ vô hiệu, hợp đồng dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp hợp đồng bị che giấu đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 và luật khác có liên quan. Còn đối với hợp đồng dân sự được xác lập nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì hợp đồng đó sẽ vô hiệu.
Một ví dụ về hợp đồng giả tạo xác lập nhằm che giấu một giao dịch khác: Anh H ký hợp đồng gửi giữ tài sản với anh K, nhờ anh K giữ hộ xe ô tô cho mình để tránh bị kê biên tài sản, đồng thời anh H cũng ký hợp đồng mua bán xe ô tô trị giá 700.000.000 đồng với anh K. Trong trường hợp này hợp đồng gửi giữ xe ô tô là hợp đồng thật và có giá trị pháp lý, còn hợp đồng mua bán xe ô tô là giả tạo và không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của anh H và anh K nên giao dịch này sẽ bị vô hiệu.
Ví dụ về hợp đồng giả tạo xác lập nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba: ông C nợ bà V 200.000.000 đồng nhưng không chịu trả nợ cho bà V theo hạn thỏa thuận. Bà V kiện ông C ra Tòa án và Tòa tuyên ông C phải trả số tiền trên cho bà V. Vì ông C có nhiều tài sản trong nhà nên để tránh phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho bà V thì ông C quyết định định đoạt toàn bộ tài sản của mình cho người cháu E. Trong trường hợp này ông C không có nhu cầu định đoạt tài sản cho E nhưng vì mục đích của ông trong việc định đoạt là để trốn việc trả nợ, thi hành án cho nên giao dịch giữa ông và người cháu E sẽ bị vô hiệu.
Thứ ba, hợp đồng dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện (Điều 125). Ở đây không phải tất cả các hợp đồng mà những đối tượng trên cứ xác lập là sẽ bị vô hiệu. Mà hợp đồng do các đối tượng trên xác lập vẫn có thể không bị vô hiệu trong các trường hợp sau đây: hợp đồng dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó; hợp đồng dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện hợp đồng với họ; hợp đồng dân sự được người xác lập hợp đồng thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.
Thứ tư, hợp đồng dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn (Điều 126). Nhầm lẫn là việc một người bị hiểu sai, hiểu không đúng bản chất của vấn đề, sự việc do nguyên nhân chủ quan hoặc sự ảnh hưởng của khách quan bên ngoài tác động. Trong trường hợp nếu một bên vô ý khiến cho bên kia nhầm lẫn về điều khoản theo một hướng khác nhưng thực chất điều khoản đó không đúng theo cách hiểu như vậy và kết quả là một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc ký kết hợp đồng thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu. Tuy nhiên, việc Tòa án có chấp nhận yêu cầu của bên nhầm lẫn hay không còn phụ thuộc vào mục đích ký kết hợp đồng của các bên có đạt được hay không. Nếu như các bên đã đạt được mục đích của việc ký kết hợp đồng hoặc các bên khắc phục ngay được sự nhầm lẫn để đạt được mục đích thì hợp đồng xác lập có sự nhầm lẫn sẽ không bị vô hiệu.
Thứ năm, hợp đồng dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép (Điều 127). Đây là trường hợp một bên hoặc các bên ký kết hợp đồng bị bên còn lại lừa dối khiến cho bản thân bị hiểu sai và tin tưởng, nhận lời xác lập hợp đồng, bị đe dọa, cưỡng ép phải ký kết hợp đồng trong khi bản thân mình không muốn làm điều đó. Trường hợp này thì bên bị lừa dối, cưỡng ép, đe dọa có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu.
Thứ sáu, hợp đồng dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình (Điều 128). Đây là trường hợp người có năng lực hành vi dân sự nhưng trong quá trình tham gia vào việc xác lập hợp đồng thì lại không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Trường hợp này hợp đồng sẽ bị Tòa án tuyên vô hiệu theo yêu cầu của người này khi họ đã trở lại được nhận thức bình thường và làm chủ được hành vi của mình.
Thứ bảy, hợp đồng dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức (Điều 129). Theo nguyên tắc, các hợp đồng dân sự vi phạm các quy định liên quan đến điều kiện có hiệu lực về hình thức (hình thức văn bản, quy định về công chứng, chứng thực) của hợp đồng thì sẽ bị vô hiệu, trừ trường hợp các bên đã thực hiện được ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong hợp đồng và yêu cầu Tòa án công nhận hiệu lực.
Thứ tám, hợp đồng dân sự vô hiệu từng phần (Điều 130). Đây là trường hợp hợp đồng dân sự có một phần nội dung bị vô hiệu nhưng không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của phần hợp đồng còn lại. Phần nội dung hợp đồng vô hiệu thì sẽ bị Tòa án tuyên vô hiệu, còn phần nội dung còn lại trong hợp đồng vẫn sẽ có giá trị pháp lý.
Cuối cùng là hợp đồng dân sự vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được (Điều 408). Đây là trường hợp mà ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng sẽ bị vô hiệu, trừ trường hợp đối với hợp đồng có một hoặc nhiều phần có đối tượng không thể thực hiện được nhưng phần còn lại của hợp đồng vẫn có hiệu lực. Đối tượng không thực hiện được là một sự vật bị hỏng, mất hoặc biến mất khiến cho bên thực hiện nghĩa vụ không thể thực hiện được. Ví dụ như A ký hợp đồng với B nhờ B sơn lại nhà cho A nhưng đến ngày thực hiện thì nhà của A bị sập một phần, B không thể thực hiện được nghĩa vụ sơn nhà cho A.
3. Hậu quả pháp lý và giải quyết tranh chấp khi hợp đồng dân sự vô hiệu
Hậu quả pháp lý và giải quyết tranh chấp khi hợp đồng dân sự vô hiệu
Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về việc giải quyết hậu quả pháp lý chung của hợp đồng dân sự vô hiệu như sau:
Thứ nhất, hợp đồng dân sự vô hiệu sẽ không làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm hợp đồng được xác lập. Vì vậy, khi một trong các bên hoặc các bên giao kết mà chiếm hữu, sử dụng tài sản của nhau khi hợp đồng bị tuyên là vô hiệu thì việc chiếm hữu và sử dụng tài sản đó được coi là chiếm hữu, sử dụng tài sản không có căn cứ pháp luật. Vậy nên các bên sẽ phải có nghĩa vụ hoàn trả lại tài sản đã chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật đó.
Thứ hai, khi hợp đồng dân sự vô hiệu thì lợi ích của mỗi bên sẽ được giải quyết bằng việc các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu và trao trả cho nhau những gì đã nhận được từ mỗi bên. Nếu như các bên không thể hoàn trả hiện vật được cho nhau vì nhiều lý do (đã sử dụng, làm hỏng, làm mất,…) thì các bên phải quy đổi hiện vật ra thành tiền để trả.
Thứ ba, khi hợp đồng dân sự vô hiệu thì bên ngay tình mà thu được hoa lợi, lợi tức sẽ không phải hoàn trả số hoa lợi, lợi tức đã thu được. Bởi trong trường hợp này người chiếm hữu, sử dụng tài sản ngay tình là người không biết hoặc không thể biết được việc chiếm hữu, sử dụng tài sản đó là chiếm hữu, sử dụng tài sản không có căn cứ pháp luật. Vậy nên họ sẽ không cần phải trả lại số hoa lợi, lợi tức đã thu được từ tài sản chiếm hữu, sử dụng không có căn cứ pháp luật.
Thứ tư, nếu như một bên có lỗi, gây thiệt hại cho bên còn lại thì phải tiến hành bồi thường cho bên bị thiệt hại; nếu các bên đều có lỗi thì các bên sẽ phải bồi thường thiệt hại dựa trên mức độ lỗi trong việc gây ra thiệt hại của mình.
Thứ năm, hợp đồng dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân thì việc giải quyết hậu quả đối với hợp đồng này sẽ tuân thủ theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 và luật khác có liên quan.
Bài viết trên đây đã trình bày các vấn đề về khái niệm hợp đồng dân sự vô hiệu, nguyên nhân dẫn đến hợp đồng dân sự vô hiệu cũng như hậu quả pháp lý và giải quyết tranh chấp khi hợp đồng dân sự vô hiệu. Bạn đọc đang có thắc mắc về vấn đề liên quan hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được giải đáp nhanh chóng: