Luật Ánh Ngọc

Sự cần thiết của việc thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

Pháp lý doanh nghiệp | 2024-09-23 01:17:28

1. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là gì

Trước khi trả lời cho câu hỏi “Tại sao phải cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước”, ta cần hiểu rõ doanh nghiệp nhà nước là gì và cổ phần hóa là gì.

Theo quy định tại Điều 2 Nghị định 126/2017/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung Nghị định 140/2020/NĐ-CP), doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, gồm:

Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là quá trình chuyển một phần hoặc toàn bộ sở hữu Nhà nước trong các doanh nghiệp sang các hình thức sở hữu khác nhằm mục đích huy động các nguồn lực từ các thành phần kinh tế phi Nhà nước để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Như vậy, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là sự chuyển đổi loại hình doanh nghiệp từ công ty TNHH có 100% vốn nhà nước sang hình thức công ty cổ phần:

Cần phân biệt hình thức cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và tư nhân hóa:

Cần lưu ý rằng, tại Việt Nam hiện nay không chấp nhận khái niệm tư nhân hóa, không cho phép chuyển 100% vốn nhà nước cho tư nhân nắm giữ mà sử dụng khái niệm cổ phần hóa “equitisation”- không bán 100% vốn cho nhà đầu tư tư nhân mà Nhà nước vẫn giữ một tỉ lệ nhất định đủ lớn để là cổ đông chiến lược.

2. Tại sao phải cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

Tại sao phải cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

2.1. Xuất phát từ vấn đề lý luận

Về lý luận, có ba lý thuyết ủng hộ việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là quyền đối với tài sản (Alcian and Demsetz, 1973), lựa chọn của công chúng (Niskanen 1971; Tullock 1976) và thuyết đại diện của Jensen và Meckling.

Theo đó, lý thuyết đại diện cho rằng, các nhà quản lý tìm cách tối ưu hóa quyền lợi của họ hơn là quyền lợi của chủ sở hữu hay của bản thân doanh nghiệp. Tuy nhiên, các nhà quản lý tại các doanh nghiệp tư nhân buộc phải tuân thủ các cơ chế kiểm soát.

 Thuyết quyền lợi đối với tài sản cho rằng, trong sở hữu nhà nước, quyền lợi đối với tài sản không được hiểu một cách chính xác (Ramamuriti, 2000). Các nhà quản lý doanh nghiệp tư nhân phải tập trung vào tính thanh khoản của tài sản, quan tâm đến nguy cơ phá sản và các cơ chế ngăn chặn nhà quản lý hành động vì tư lợi. Đối với các nhà quản lý trong doanh nghiệp nhà nước, họ không bị kiểm soát bởi những điều này nên cũng có ít động lực để tối đa hóa giá trị doanh nghiệp và lợi nhuận.

Thuyết công chúng cũng cho rằng có nhiều vấn đề trong việc quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp tư nhân. Các nhà quản lý doanh nghiệp nhà nước quan tâm đến việc tối đa hóa quyền lợi của họ, danh tiếng và các nguồn lực mà họ kiểm soát (Niskanen 1971).

2.2. Xuất phát từ thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp nhà nước

Trước đây, doanh nghiệp nhà nước được tổ chức và vận hành qua nhiều cấp trung gian, hệ thống kế hoạch, tài chính theo Nhà nước nên đôi khi còn cứng nhắc, thiếu khả năng thích ứng với nền kinh tế thị trường, tính chủ động chưa cao do bị gò bó bởi nhiều quy chế xuất phát từ quyền sở hữu nhà nước.

Trước khi thực hiện cổ phần hóa, nước ta có 6000 doanh nghiệp nhà nước với 88% tổng số vốn nhưng hiệu quả kinh tế thấp, chỉ có khoảng 50% doanh nghiệp Nhà nước là có lãi, khả năng đóng góp sau khi trừ khấu hao cơ bản và thuế gián thu chỉ chiếm 30% ngân sách nhà nước. Điều đó có nghĩa là hoạt động doanh nghiệp của Nhà nước không tương xứng với phần đầu tư và tiềm lực kinh tế của doanh nghiệp.

Theo Sách trắng doanh nghiệp được công bố năm 2019, có 2486 doanh nghiệp nhà nước đang hoạt động, chiếm 28,8% tổng nguồn vốn, 22,9% tổng lợi nhuận trước thuế nhưng lợi nhuận thấp hơn hai khu vực ngoài nhà nước và FDI.

Các doanh nghiệp nhà nước có 100% vốn Nhà nước, do đó thường được Nhà nước ưu đãi về vốn. Trong trường hợp doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có lợi nhuận thì doanh nghiệp hưởng còn khi thua lỗ thì Nhà nước rót vốn vào để doanh nghiệp tiếp tục hoạt động. Điều này dẫn đến tâm lý ỷ lại của doanh nghiệp, làm hao mòn ý chí làm việc.

Do đó, dẫn đến việc Nhà nước phải giảm thâm hụt ngân sách và cắt giảm việc phát sinh chi phí do tài trợ cho những doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, để trả nợ và để tăng thu thuế.

Mặt khác, nền kinh tế thị trường đã có sự thay đổi từ chỗ nhấn mạnh vai trò của khu vực kinh tế nhà nước đến coi trọng nền kinh tế tư nhân và vai trò điều tiết của nền kinh tế thị trường theo xu hướng mô hình hỗn hợp giữa Nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân.

Từ những phân tích trên có thể thấy, sự phát triển của doanh nghiệp nhà nước một phần không còn phù hợp với nền kinh tế thị trường. Vì vậy, việc đặt ra vấn đề cổ phần hóa doanh nghiệp là cần thiết.

2.3. Vai trò của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

3. Giải đáp một số thắc mắc

3.1. Các hình thức cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước hiện nay

Hiện nay có 03 hình thức cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, gồm:

3.2. Những tổ chức, cá nhân nào được mua cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

Căn cứ Điều 6 Nghị định 126/2017/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung Nghị định 140/2020/NĐ-CP), để được mua cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, tổ chức, cá nhân phải là những đối tượng sau:

Tuy nhiên, những đối tượng sau không được mua cổ phiếu phát hành lần đầu của doanh nghiệp:

Như vậy, việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước không nhằm mục đích “tư nhân hóa” doanh nghiệp nhà nước mà tạo cơ chế đa dạng chủ sở hữu cho doanh nghiệp nhà nước, từ đó vừa đảm bảo sử dụng hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước, vừa huy động thêm vốn của xã hội vào phát triển kinh tế, phát huy vai trò làm chủ của người lao động, tăng cường sự giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp.


Bài viết khác