Chị C và anh M đã kết hôn được năm năm. Tuy nhiên, thời gian gần đây anh M thường xuyên đi công tác dài ngày, có nhiều công việc bận rộn không thể quan tâm chị C khiến chị tủi thân, buồn phiền. Chị cảm thấy rằng anh M có nhiều biểu hiện lạ và chị đã phát hiện anh đã có người khác ở bên ngoài. Việc anh M có người khác ở bên ngoài đã là một cú sốc rất lớn đối với chị và chị quyết định ly hôn với anh vì anh đã không làm tròn nghĩa vụ của một người chồng. Khi hai người đã hoàn tất thủ tục ly hôn và chị C đã chuyển về nhà mẹ đẻ của chị sống thì chị phát hiện ra rằng chị đã mang thai được hai tháng. Chị rất hoang mang vì không biết liệu con chị sinh ra có được công nhận là con của anh M hay không; con sinh ra sau khi ly hôn thì có được thừa nhận là con chung của chị và anh M hay không?
1. Phân biệt con chung, con riêng
Con chung là con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân. Con được sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận cũng là con chung của vợ chồng. Trong trường hợp cha hoặc mẹ không thừa nhận nhưng có chứng cứ để tòa ra căn cứ quyết định xác định là con của hai người thì cũng là con chung của vợ chồng. Con được sinh ra mà cha mẹ không đăng ký kết hôn, không sống chung với nhau như vợ chồng trên thực tế thì vẫn là con chung của hai người và thường được gọi là con ngoài giá thú.Con nuôi do vợ chồng cùng nhận nuôi cũng là con chung.
Con riêng là con của một bên vợ hoặc chồng với người khác. Con riêng có thể là con do người vợ hoặc người chồng có trước khi kết hôn (có trong quan hệ hôn nhân trước hoặc vợ, chồng chưa kết hôn nhưng đã có con ngoài hôn nhân). Cũng có thể là con riêng của vợ nếu do người vợ sinh ra trong thời kì hôn nhân nhưng Tòa án đã xác định người chồng không phải là cha của người con đó (con do người vợ c6 thai với người khác trong thời kì hôn nhân). Có thể là con riêng của người chồng trong trường hợp Tòa án xác định người chồng là cha của người con do người phụ nữ khác sinh ra. Như vậy, con riêng có thể là con trong hôn nhân, có thể là con ngoài hôn nhân.
2. Khi nào con sinh ra sau ly hôn được xác định là con chung
2.1. Xác định con chung sau ly hôn
Việc xác định con được sinh ra sau khi ly hôn là con chung hay con riêng; ảnh hưởng rất lớn đến quyền và nghĩa vụ của các bên đối với đứa trẻ. Theo khoản 1 Điều 39 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình như sau:
Con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha, mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha, mẹ của mình
Theo đó, tại khoản 1 điều 88 Luật hôn nhân gia đình 2014 quy định về việc xác định cha mẹ con như sau:
Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai; trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng
Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân; được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân
Con được coi là con chung của hai vợ chồng khi thuộc một trong các trường hợp nêu trên, việc xác định con chung có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc ghi nhận mối quan hệ cha, mẹ, con và là căn cứ pháp lý để cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh như: giải quyết các án kiện về ly hôn, chia tài sản thừa kế, thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng…Căn cứ vào nội dung này ta có thể xác định nếu con sinh ra sau trong thời hạn 300 ngày kể từ ngày ly hôn thì vẫn được coi là con chung của vợ chồng.
Theo đó, sau khi ly hôn thì chị C phát hiện đã mang thai hơn hai tháng. Do vậy, nếu đứa trẻ sinh ra sẽ trong trường hợp là đứa trẻ sinh ra sau 300 ngày ly hôn. Vì vậy, con do chị C sinh ra vẫn được công nhận là con chung giữa anh M và chị C.
Xem thêm bài viết: Vấn đề chia tài sản và con chung sau khi hủy kết hôn trái pháp luật
2.2. Trường hợp chồng cũ không nhận con chung
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 88 Luật hôn nhân và gia đình 2014 đã nêu trên, nếu chồng cũ là anh M không nhận đứa trẻ chị C sinh ra là con chung thì anh ta phải có bằng chứng và được Tòa án xác định. Vậy, khi chồng cũ cố tình không nhận thì vợ có thể làm đơn khởi kiện ra tòa án để xác định cha con cho con của mình, kèm theo đơn khởi kiện thì bạn cần chuẩn bị các chứng cứ để chứng minh đứa trẻ là con của chồng cũ mà chứng cứ rõ ràng và chuẩn xác nhất là kết quả xét nghiệm ADN, bạn có thể tự mình hoặc đề nghị Tòa án giám định ADN của đứa trẻ theo quy định tại Điều 102 Bộ luật tố tụng dân sự 2015:
- Đương sự là người mẹ có quyền yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định hoặc tự mình yêu cầu giám định sau khi đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định nhưng Tòa án từ chối yêu cầu của đương sự. Quyền tự yêu cầu giám định của người mẹ được thực hiện trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự.
- Theo yêu cầu của đương sự trong trường hợp này là người mẹ yêu cầu giám định cho con hoặc khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định. Trong quyết định trưng cầu giám định phải ghi rõ tên, địa chỉ của người giám định, đối tượng cần giám định, vấn đề cần giám định, các yêu cầu cụ thể cần có kết luận của người giám định.
- Trường hợp xét thấy kết luận giám định chưa đầy đủ, rõ ràng hoặc có vi phạm pháp luật thì theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Tòa án yêu cầu người giám định là cơ quan có thẩm quyền, bệnh viện, phòng khám,… giải thích kết luận giám định, triệu tập người giám định đến phiên tòa, phiên họp để trực tiếp trình bày về các nội dung cần thiết.
- Nếu đương sự cảm thấy kết quả xét nghiệm chưa đầy đủ thì có thể yêu cầu xét nghiệm them. Trong trường hợp đó, theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định bổ sung trong trường hợp nội dung kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc khi phát sinh vấn đề mới liên quan đến tình tiết của vụ việc đã được kết luận giám định trước đó.
- Việc giám định lại được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết luận giám định lần đầu không chính xác, có vi phạm pháp luật hoặc trong trường hợp đặc biệt theo quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo quy định của Luật giám định tư pháp.”
Tóm lại, nếu kết quả trưng cầu giám định xác định chồng cũ và đứa trẻ có quan hệ huyết thống thì Tòa án sẽ xác định quan hệ cha con trong trường hợp này, dù chồng cũ dù cho có cố tình không nhận thì cũng phải thực hiện những nghĩa vụ đối với con của mình, nếu không thực hiện thì sẽ bị cưỡng chế thi hành theo quy định của pháp luật.
2.3. Nghĩa vụ của cha mẹ đối với con được sinh ra sau ly hôn
Vì được xác định là con chung của ca hai. Bởi vậy, trong trường hợp được xác định là con chung thì vợ chồng phải có nghĩa vụ nuôi dưỡng và chăm sóc con chung. Theo đó, trong trường hợp ly hôn thì cha mẹ vẫn có các nghĩa vụ với con cái bao gồm:
Về chăm sóc, nuôi dưỡng con cái:
Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định pháp luật.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ như
- Thăm nom con mà không ai được cản trở, yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con; sau ly hôn khi có căn cứ thay đổi tại Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình 2014. Đồng thời có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi và có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
- Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng, giáo dục chăm sóc con cái; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình; yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người kia nếu việc thăm nom; để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Xem thêm bài viết: Sau khi ly hôn, ai sẽ là người nuôi con?
3. Nghĩa vụ cấp dưỡng sau khi ly hôn
Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con, giữa anh, chị, em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột, giữa vợ và chồng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình. Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác
Cha đẻ, mẹ đẻ sau khi ly hôn có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con ruột (Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014): Cha mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi; Cha mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ phải cấp dưỡng cho con; Sau khi ly hôn người nào không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Về mức cấp dưỡng được quy định cụ thể tại Điều 116 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 như sau:
- Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng là cha hoặc mẹ người không trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con cái và người được cấp dưỡng là con cái hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Khi có lý do chính đáng như thay đổi mức thu nhập, có khó khăn,…, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về mức xử phạt khi không cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn: (Điều 57 Nghị định 144/2021/NĐ-CP, Điều 186 Bộ luật Hình sự năm 2015)
- Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
+ Từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn; từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa anh, chị, em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu theo quy định của pháp luật;
+ Từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng cha, mẹ; nghĩa vụ cấp dưỡng, chăm sóc con sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật.
- Biện pháp khắc phục hậu quả:
+ Buộc thực hiện nghĩa vụ đóng góp, nuôi dưỡng.
Đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ cấp dưỡng nghiêm trọng hơn thì chế tài được quy định tại Điều 186 Bộ luật Hình sự năm 2015 như sau
Người có nghĩa vụ cấp dưỡng là cha, mẹ,... và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng là con cái theo quy định của pháp luật mà từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, làm cho người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn vi phạm thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Theo quy định trên, các trường hợp bị xử phạt vi phạm hành chính như sau: phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng nếu từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn, từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa anh, chị, em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu theo quy định của pháp luật, từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng cha mẹ, nghĩa vụ cấp dưỡng, chăm sóc con sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật
Trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự: phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm, người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, lam cho người được cấp dưỡng lâm vào trình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều 186 Bộ luật Hình sự năm 2015 mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 380 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Về điều kiện phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng: cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con (Điều 110 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014)
Có thể khẳng định người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng không chung sống cùng nhau hoặc có chung sống nhưng người có nghĩa vụ cấp dưỡng lại vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con cái mình
Bên cạnh đó, người được cấp dưỡng phải là người chưa thành niên hoặc người đã thành niên mà không có khả năng lao động theo quy định của pháp luật và không có tài sản để tự nôi bản thân hoặc người đang gặp khó khăn, túng thiếu. Người có nghĩa vụ cấp dưỡng có tài sản để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của mình. Nói tóm lại nếu đáp ứng được các điều kiện nêu trên thì sẽ phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng.
4. Mức cấp dưỡng nuôi con tối thiểu
Tiền cấp dưỡng nuôi con được hiểu là những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên thỏa thuận.
Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình quy định mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập; khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng… Khi có lý do chính đáng; mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết.
Như vậy; pháp luật hiện hành không quy định mức cấp dưỡng cụ thể là 2 triệu; 5 triệu hay 100 triệu/tháng; mà tạo điều kiện cho các bên tự thỏa thuận dựa vào điều kiện; thu nhập của người cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Khi quyết định mức tiền phải cấp dưỡng; tòa án sẽ căn cứ vào mức thu nhập của người cấp dưỡng; vì vậy mức cấp dưỡng thường không cao hơn mức thu nhập của người cấp dưỡng; dao động 15-30% mức thu nhập của người cấp dưỡng.
Trường hợp không xác định được mức thu nhập của người cấp dưỡng; thì lương tối thiểu vùng hoặc án lệ trước đó sẽ là căn cứ để Tòa án giải quyết vụ việc. Tuy nhiên; nếu tòa án phán quyết mức cấp dưỡng vẫn vượt quá khả năng của người cấp dưỡng; thì người cấp dưỡng có quyền làm đơn đề nghị tòa án xem xét lại mức cấp dưỡng.
Về phương thức cấp dưỡng do các bên thoả thuận định kỳ hàng tháng; hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì Toà án quyết định phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng tháng.
Hôn nhân là một hình thức ràng buộc con người trong một thể chế xã hội chặt chẽ, khuôn phép, cùng tuân thủ theo những nguyên tắc mà luật pháp quy định về hôn nhân và gia đình. Khi kết thúc hôn nhân thì điều ràng buộc duy nhất còn lại là con cái bởi con cái chính là điều quý giá nhất đối với cha mẹ. Việc cùng nhau nuôi con sau khi ly hôn là quyền và nghĩa vụ đương nhiên của cả cha và mẹ. Vì vậy, việc cấp dưỡng nuôi con là điều vô cùng cần thiết. Chính vì vậy, qua bài viết này, Luật Ánh Ngọc xin được chia sẻ đến quý vị những thông tin pháp lý liên quan đến việc cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn.Với những thông tin được chia sẻ trên đây, Luật Ánh Ngọc hy vọng giải đáp được phần nào thắc mắc của quý vị. Để biết thêm chi tiết về các quy định cấp dưỡng, quý khách hàng có thể liên hệ với Công ty Luật Ánh Ngọc qua trang web. Hy vọng những thông tin được Luật Ánh Ngọc chia sẻ trong bài viết đem lại những lợi ích tốt nhất cho quý khách hàng.
Với sự hỗ trợ chuyên nghiệp của các luật sư, khách hàng có thể yên tâm tin tưởng vào chất lượng dịch vụ và đạt được kết quả như mong muốn. Công ty Luật Ánh Ngọc luôn sẵn sàng trao đổi, hỗ trợ Quý khách hàng những thông tin cần thiết trong quá trình khách hàng thực hiện cấp dưỡng nuôi con. Xin vui lòng liên hệ Công ty Luật Ánh Ngọc để được tư vấn cụ thể.