Phạm tội cưỡng ép quan hệ với người khác có bị truy cứu TNHS?


Phạm tội cưỡng ép quan hệ với người khác có bị truy cứu TNHS?
Tội cưỡng ép quan hệ tình dục với người khác có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Phụ thuộc vào quy định cụ thể, hình phạt có thể khác nhau. Trong nhiều trường hợp, việc xét xử và truy cứu trách nhiệm về tội này dựa trên hành vi của người phạm tội, tình tiết vụ việc, và tuổi tác của nạn nhân.

1. Phạm tội cưỡng ép quan hệ với người khác có bị truy cứu TNHS?

Hiện nay, Bộ luật hình sự không có quy định về tội "cưỡng ép quan hệ với người khác", mà nó được thể hiện qua 02 tội là tội hiếp dâmtội cưỡng dâm.

  • Hiếp dâm là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của người khác hoặc thủ đoạn khác nhằm mục đích giao cấu hoặc quan hệ tình dục trái ý muốn của nạn nhân.
  • Cưỡng dâm là hành vi dùng thủ đoạn khiến người đang bị lệ thuộc vào mình hoặc trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc quan hệ tình dục với mình.

Hành vi có các yếu tố cấu thành tội hiếp dâm và tội cưỡng dâm sẽ phải chịu TNHS về hành vi  cưỡng ép quan hệ với người khác theo quy định của pháp luật hiện hành.

Như vậy, người phạm tội cưỡng ép quan hệ với người khác chắc chắn sẽ bị truy cứu TNHS. 

Cùng Luật Ánh Ngọc tìm hiểu một số ví dụ cụ thể để làm rõ hành vi phạm tội này.

Phạm tội cưỡng ép quan hệ với người khác có bị truy cứu TNHS?
Phạm tội cưỡng ép quan hệ với người khác có bị truy cứu TNHS?

2. Truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm

2.1. Tình huống mô tả về tội hiếp dâm

A là bạn trai của B. A dụ B vào nhà nghỉ sau đó đánh B nhằm bắt B thỏa mãn nhu cầu tình dục của mình. Như vậy, việc xác định trách nhiệm hình sự của người bạn trai (A) phụ thuộc vào một số yếu tố như tuổi tác, tình tiết của hành vi, và độ tuổi của bạn gái (B). Dưới đây là các trường hợp cụ thể và mức án phạt tương ứng:

Trường hợp 1: Nếu B đủ 16 tuổi trở lên và A có hành vi sử dụng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của B hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái ý muốn của B, và A đủ 16 tuổi trở lên, thì A có thể bị kết án tù từ hai năm đến bảy năm về tội hiếp dâm theo quy định tại khoản 1 Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.

Trường hợp 2: Nếu B là người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, A có hành vi tương tự như trường hợp 1, và A đủ 16 tuổi trở lên, thì A có thể bị kết án tù từ năm năm đến mười năm về tội hiếp dâm theo quy định tại khoản 4 Điều 141 Bộ luật Hình sự.

Trường hợp 3: Nếu B là trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, A có hành vi tương tự như trường hợp 1, và A đủ 14 tuổi trở lên, thì A có thể bị kết án tù từ bảy năm đến mười lăm năm về tội hiếp dâm theo quy định tại khoản 1 Điều 142 Bộ luật Hình sự.

Trường hợp 4: Nếu B là trẻ em dưới 13 tuổi, A có hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với B, và A đủ 14 tuổi trở lên, thì A có thể bị kết án tù từ bảy năm đến mười lăm năm về tội hiếp dâm theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 142 Bộ luật Hình sự.

Ngoài việc xác định trách nhiệm hình sự, cần lưu ý quy định về việc khởi tố vụ án. Theo khoản 1 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự, vụ án về tội hiếp dâm chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại. Tuy nhiên, đối với các trường hợp khác, người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà không cần phải có yêu cầu của người bị hại.

Nếu bạn hoặc ai đó biết về việc xâm hại tình dục và không thấy cơ quan chức năng đang xử lý, có thể tố giác tội phạm với cơ quan nhà nước có thẩm quyền như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, hoặc Tòa án. Tố giác có thể được thực hiện bằng miệng và yêu cầu phải được ghi chép và có chữ ký của người tố giác.

Ví dụ về tội hiếp dâm
Ví dụ về tội hiếp dâm

2.2. Giải đáp thắc mắc về trách nhiệm hình sự đối với tội hiếp dâm

Tôi có một vụ việc muốn được giải đáp và kể lại chi tiết sự việc để quý công ty hiểu rõ hơn. Vụ việc này liên quan đến hai người chính: một người tôi gọi là "Nữ" (người bị hại), và một người là "Nam" (người có hành vi phạm tội).

Sự việc xảy ra trong một buổi sự kiện tại quận Hà Đông, Hà Nội. Vào khoảng 12 giờ trưa, Nam đang ăn cơm cùng với một số người tại tầng 2 của trung tâm nơi diễn ra sự kiện. Lúc này, chủ sự kiện, một người đàn ông, đã đưa một cô gái (Nữ) vào phòng ăn và giới thiệu cô là một sinh viên khoa báo chí đến để ghi hình và viết bài về buổi sự kiện. Sau đó, Nữ ngồi cùng với mọi người để dùng bữa. Nam và Nữ sau đó mời rượu nhau và trao đổi số điện thoại để liên lạc sau sự kiện.

Sau bữa ăn, Nam và Nữ cần sử dụng máy tính, nhưng Nam quên máy tính ở nhà. Nữ đã nhờ Nam đưa cô đến một quán Internet, nhưng Nam từ chối và nói rằng họ sẽ đi đón một người bạn cùng quê trước khi tìm quán Internet sau. Nữ đã đồng ý với đề nghị của Nam.

Khi Nữ kiểm tra xe phía sau vì không thấy máy tính, Nam lo sợ và đã xuống xe và nói rằng sẽ đưa Nữ về trước. Do hành động bất ngờ của Nam, Nữ đã phản ứng bằng cách nói to và hét lên. Điều này làm Nam hoảng loạn, và anh ta đã dùng tay phải để bịt miệng Nữ và tay trái vòng qua vai nắm lấy cổ Nữ. Nam nói rằng Nữ không nên hét lên và nếu Nữ đồng ý, cô nên giơ tay lên để anh ta buông ra. Nữ đồng ý giơ tay lên, và Nam đã thả ra. Trong lúc Nam bịt miệng Nữ, có lẽ do sợ hãi, Nữ đã cào vào mặt và tay phải của Nam.

Hai người đã ngồi nói chuyện khoảng một tiếng sau đó. Trong thời gian này, Nữ hỏi Nam về việc quan hệ tình dục, và Nam đã trả lời một cách chi tiết. Nam đã thuyết phục Nữ tham gia quan hệ bằng miệng, và Nữ đã đồng ý. Nam đã ghi lại một đoạn video vì sợ Nữ sẽ kiện anh ta. Sau đó, Nam đã ngừng việc này và xóa video trước mặt Nữ, nói rằng anh sợ vợ biết. Nam đã đưa Nữ về và sau đó đến cơ quan công an quận Hà Đông để khai báo sự việc.

Tại cơ quan công an, cán bộ điều tra đã yêu cầu Nam viết tường trình và thu giữ điện thoại di động của Nam. Họ còn còng tay Nam vào giường để Nam ngủ. Sáng hôm sau, cán bộ yêu cầu Nam gọi lái xe đưa xe về trụ sở công an quận để xác minh. Vào buổi chiều cùng ngày, Nam và Nữ đã được di dời từ công an quận Hà Đông đến cơ quan công an huyện Thanh Oai để bàn giao. Tại đây, cảnh sát lập biên bản tạm giữ xe ô tô mà Nam đã lái để thực hiện xác minh.

Nam đã bị tạm giữ trong 9 ngày tại trại tạm giam của công an huyện Thanh Oai. Tuy nhiên, vào ngày thứ 9, Nam bị tái phát bệnh sỏi thận và được đưa đến bệnh viện đa khoa huyện để khám, siêu âm và chụp x-quang. Tại đây, bác sĩ kết luận Nam có sỏi thận trái rơi xuống đường tiết niệu và yêu cầu phẫu thuật ngay. Nhưng sau khi tiêm giảm đau, tình trạng của Nam đã không còn nguy cấp, và anh được đưa trở lại trại tạm giam. Gia đình của Nam đã làm đơn bảo lãnh để Nam được điều trị ngoại bệnh. Do Nam chưa có tiền án tiền sự nên đã được chuyển từ lệnh tạm giam sang lệnh cấm rời khỏi nơi cư trú.

Câu hỏi của tôi như sau: Nam đã vi phạm tội gì và theo điều khoản nào? Mức án là bao nhiêu?

Câu trả lời

Trong trường hợp này, Nữ đã qua tuổi 18, là một người trưởng thành.

Theo Điều 141 của Bộ luật Hình sự 2015 đã sửa đổi bổ sung vào năm 2017, về tội hiếp dâm, quy định như sau:

"Điều 141. Tội hiếp dâm

1. Người nào thực hiện hành vi sử dụng vũ lực, đe dọa bằng vũ lực, hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ của nạn nhân, hoặc áp dụng thủ đoạn khác để thực hiện hành vi giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác mà nạn nhân không đồng ý, sẽ bị xem xét phạt tù từ 02 năm đến 07 năm."

Như vậy, để bị kết án tội hiếp dâm, phải tồn tại hành vi sử dụng vũ lực hoặc đe dọa bằng vũ lực, lợi dụng tình trạng không thể tự vệ của nạn nhân, hoặc áp dụng thủ đoạn khác để thực hiện hành vi giao cấu hoặc quan hệ tình dục mà nạn nhân không đồng ý. Trong trường hợp này, Nam không thực hiện hành vi giao cấu với Nữ. Hơn nữa, Nam không dùng vũ lực hoặc đe dọa bằng vũ lực, và hành động của Nữ là do sự hoảng loạn và không phải do bị ép buộc.

Vì vậy, dựa trên các điều kiện và tình tiết cụ thể của sự việc, có vẻ như Nam không vi phạm tội hiếp dâm theo quy định luật pháp. Tuy nhiên, quyết định cuối cùng về tình trạng phạm tội sẽ do các cơ quan thẩm quyền quyết định và có thể thay đổi tùy theo tình huống cụ thể. Trong trường hợp này, việc tư vấn với một luật sư hoặc chuyên gia pháp lý địa phương có thể giúp bạn nhận được lời khuyên cụ thể hơn về tình huống của bạn.

3. Truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng dâm

3.1. Bản án số 83/2021/HSST ngày 23/4/2021 về tội cưỡng dâm

Bản án số 83/2021/HSST ngày 23/4/2021 về vụ án "Phạm tội cưỡng dâm" của bị cáo Hoàng Tuyển T được Tòa án Nhân dân quận Long Biên, Thành phố Hà Nội ra quyết định như sau:

Sau thời gian quan hệ tình cảm, bị cáo Hoàng Tuyển T và chị Nguyễn Thị T đã quan hệ tình dục và bị cáo Hoàng Tuyển T đã sử dụng điện thoại để chụp ảnh khoả thân của chị Nguyễn Thị T. Chị T muốn chấm dứt quan hệ tình cảm với bị cáo T và không đồng ý tiếp tục quan hệ tình dục với bị cáo T, nhưng bị cáo T liên tục đe dọa chị T bằng cách gửi ảnh khoả thân của chị T qua ứng dụng Zalo và đe dọa sẽ đăng ảnh khoả thân của chị T lên mạng xã hội và gửi cho bạn bè của chị T nếu chị T không đồng ý quan hệ tình dục với bị cáo T.

Vào ngày 7/12/2020, bị cáo T tiếp tục đe dọa chị T và ép chị T đến một nhà nghỉ để quan hệ tình dục với bị cáo T. Trong quá trình thực hiện hành vi cưỡng dâm, chị T bị bắt quả tang bởi công an.

Chị Nguyễn Thị T khai nhận rằng do sợ hình ảnh khoả thân của mình sẽ bị phát tán lên mạng xã hội, chị đã đồng ý đến nhà nghỉ để quan hệ tình dục với bị cáo T. Sau vụ việc, chị T không bị thương tích gì và tinh thần hiện đã ổn định. Chị T yêu cầu truy tố bị cáo trước pháp luật và không yêu cầu bất kỳ đòi hỏi nào về bồi thường dân sự.

Lời khai của bị cáo Hoàng Tuyển T phù hợp với lời khai của chị T, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Dựa trên các tình tiết trên, bị cáo đã thực hiện hành vi đe dọa tinh thần chị T, bao gồm việc gửi ảnh và đe dọa phát tán hình ảnh này, để buộc chị T đồng ý quan hệ tình dục với bị cáo T. Mục đích của bị cáo đã được thỏa mãn thông qua việc quan hệ tình dục với chị T.

Bị cáo Hoàng Tuyển T là một người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ, nằm trong độ tuổi quy định phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng dâm. Trong lúc thực hiện hành vi phạm tội, tinh thần của bị cáo Hoàng Tuyển T hoàn toàn bình thường.

Do đó, Tòa án nhân dân quận Long Biên đã tuyên bị cáo Hoàng Tuyển T phạm tội cưỡng dâm và xử phạt bị cáo bằng án tù 15 (mười lăm) tháng, thời hạn tù tính từ ngày 07/12/2020.

Xem thêm: Mức xử phạt hành vi cưỡng ép người khác quan hệ tình dục

3. Ví dụ về tội cưỡng dâm
Ví dụ về tội cưỡng dâm

3.2. Giải đáp thắc mắc về trách nhiệm hình sự đối với tội cưỡng dâm

Câu hỏi: A và Y có mối quan hệ tình cảm. A mới 17 tuổi. Y nhiều lần gạ gẫm A quan hệ tình dục nhưng A đều từ chối. Sau đó, Y đã sử dụng thủ đoạn đê hèn để chiếm đoạt A sau khi A từ chối giao cấu. Như vậy, Y đã phạm tội gì dưới góc độ pháp luật? Pháp luật sẽ xử lý tình huống này ra sao?

Trả lời:

Bằng việc sử dụng thủ đoạn đê hèn để chiếm đoạt A, Y đã phạm tội cưỡng dâm theo quy định của Bộ luật Hình sự.

Cưỡng dâm là hành vi sử dụng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu.

Khoản 1 Điều 143 Bộ luật hình sự 2015 quy định:

"Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm."

Ngoài ra, hành vi cưỡng dâm đối với người chưa thành niên (từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi) được xem là hành vi nguy hiểm theo pháp luật.

Khoản 4 của Điều 143 Bộ luật Hình sự quy định:

"Cưỡng dâm người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm."

Do đó, trong trường hợp này, Y đã phạm tội cưỡng dâm và có thể phải đối mặt với hình phạt tù dựa trên quy định của pháp luật. Tuy nhiên, việc xử lý cuối cùng của tình huống này sẽ do các cơ quan thẩm quyền quyết định và phụ thuộc vào tình tiết cụ thể của vụ việc. Việc tư vấn với một luật sư hoặc chuyên gia pháp luật có thể giúp bạn nhận được lời khuyên cụ thể hơn về tình huống của bạn.

Xem thêm bài viết: Mức phạt nào đối với người có hành vi phạm tội bạo hành trẻ em?

Luật sư Phương

Luật sư Phương

Đã kiểm duyệt nội dung

Tốt nghiệp đại học Luật Hà Nội. Có hơn 10 kinh nghiệm công tác trong ngành luật. Hiện đang là giám đốc kiêm luật sư chính của Luật Ánh Ngọc.

Xem thêm thông tin

Bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, người viết áp dụng các quy định của pháp luật tại thời điểm nghiên cứu viết bài. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, vui lòng Liên hệ trực tiếp với chúng tôi.