1. Căn cứ pháp lý
- Bộ Luật Hình sự 2015
2. Phòng vệ chính đáng là gì?
2.1. Khái niệm phòng vệ chính đáng
Căn cứ khoản 1 Điều 22 Bộ Luật Hình sự 2015 quy định: “Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.”
2.2. Đặc điểm của hành vi phòng vệ chính đáng
- Về phía nạn nhân: Nạn nhân phải là người đang có hành vi xâm phạm đến các lợi ích của Nhà nước, của tổ chức , của cá nhân người phòng vệ hoặc của người khác. Đây là hành vi trái pháp luật, có thể là hành vi phạm tội hoặc hành vi trái với quy định của các ngành khác và phải có tính chất nguy hiểm đáng kể. Trong trường hợp phòng vệ chính đáng, hành vi xâm phạm phải được xem xét trong mối quan hệ với hành vi phòng vệ, không phải tất cả các hành vi phòng vệ đều là phòng vệ chính đáng.
- Về phía người phòng vệ: Người phòng vệ được phép hành động nếu thấy người có hành vi xâm hại đến các lợi ích hợp pháp của chính mình, của Nhà nước hay của người khác. Người phòng vệ chỉ được hay thiệt hại trong phạm vi cho phép mới được xem là phòng vệ chính đáng.
- Hành vi chống trả phải cần thiết: Để đảm bảo tính cần thiết của sự chống trả, ta phải dựa trên các tính chất của lợi ích bị xâm phạm, hành vi xâm phạm và mối quan hệ giữa hành vi xâm phạm và hành vi phòng vệ. Nếu hành vi chống trả vượt quá giới hạn cần thiết hoặc không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại cho xã hội, người thực hiện hành vi đó sẽ chịu trách nhiệm hình sự.
3. Ví dụ về phòng vệ chính đáng
Khi một người bị tấn công trong nhà riêng của mình bởi một kẻ xâm nhập có vũ khí, và người này đã sử dụng dao để tấn công. Nếu người bị tấn công sử dụng một cái ghế hoặc vật dụng khác để phòng vệ và bảo vệ tính mạng của mình, thì hành động đó được coi là phòng vệ chính đáng.
Tuy nhiên, nếu người này sau đó tiếp tục đánh đập người xâm nhập khi hắn đã bị đánh bại và không còn đe dọa tính mạng của người bị tấn công, thì hành động này sẽ không được coi là phòng vệ chính đáng và người bị tấn công có thể bị buộc tội về hành vi tấn công bạo lực. Ngoài ra, nếu người bị tấn công sử dụng vũ khí quá mức và gây thương tích hay tử vong cho người xâm nhập, thì hành động này cũng không được coi là phòng vệ chính đáng và có thể bị xem là phạm tội.
4. Vượt quá phòng vệ chính đáng
4.1. Thế nào là vượt quá phòng về chính đáng
Căn cứ khoản 2 Điều 22 Bộ luật Hình sự 2015 quy định: hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Đồng thời, người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự
Theo điểm c khoản 1 Điều 51 Bộ Luật Hình sự 2015 quy định người phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng sẽ được xem xét đó là tình tiết giảm nhẹ khi truy cứu TNHS.
4.2. Vượt quá phòng vệ chính đáng bị xử lý như thế nào?
Theo Điều 126 Bộ Luật Hình sự 2015 quy định về Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội như sau:
1. Người nào giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội đối với 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
Xem thêm bài viết tại: Phòng ngừa tội phạm: Mục đích, ý nghĩa của các biện pháp phòng ngừa
Theo Điều 136 Bộ Luật Hình sự 2015 quy định về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội như sau:
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.
3. Phạm tội dẫn đến chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.
Hãy liên hệ ngay với Luật Ánh Ngọc qua email: lienhe@luatanhngoc.vn hoặc điện thoại: 0878.548.558 nếu có bất kì thắc mắc nào liên quan đến "Phòng vệ chính đáng và giới hạn pháp lý trong luật hình sự" hoặc các vấn đề pháp lý khác để được tư vấn, giải đáp nhanh chóng. Luật Ánh Ngọc rất mong khi nhận được sự phản hồi của Qúy khách. Xin cảm ơn!