1. Tội xâm phạm mồ mả là gì?
"Mồ mả" đề cập đến nơi mai táng xác, bao gồm mọi thứ từ phần đất để xây dựng mộ, bia đá, quan tài trong mộ và tài sản được để trong hoặc trên mộ. "Xâm phạm mồ mả" liên quan đến việc xâm phạm vị trí này, bao gồm đào mộ, phá hủy mộ hoặc chiếm đoạt tài sản trong mộ hoặc trên mộ.
Như vậy, Tội xâm phạm mồ mả có thể hiểu là hành vi vi phạm tính toàn vẹn nơi yên nghỉ của người đã khuất nhằm mục đích chiếm đoạt một phần của thi thể hoặc chiếm đoạt tài sản trong mộ như:
- Xâm phạm trực tiếp đến xác, hài cốt, tro hài cốt của người chết;
- Di chuyển vị trí chôn cất xác, hài cốt, tro hài cốt của cá nhân mà không có sự đồng tình của người thân thích. Trừ trường hợp phải di rời mồ mả theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, việc di chuyển xác, hài cốt, hoặc tro hài cốt mà không có sự đồng tình của gia đình là một hành vi vi phạm;
- Thay đổi tấm bia ghi tên người chết có xác, hài cốt, tro hài cốt dưới mộ, gây sự nhầm lẫn về danh tính của người chết và có thể làm ảnh hưởng đến người thân thích của người chết;
- San phẳng mồ mả của người chết, làm mất dấu tích của ngôi mộ, việc đào mòn mồ mả hoặc gây mất dấu vết của ngôi mộ, khiến không thể xác định được vị trí ban đầu của nó.
2. Tội xâm phạm mồ mả bị phạt như thế nào?
Căn cứ Điều 319 Bộ luật Hình sự 2015, đã được sửa đổi và bổ sung vào năm 2017, người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với các khung hình phạt như sau:
- Bị án cải tạo không giam giữ không vượt quá 02 năm hoặc án tù từ 03 tháng đến 02 năm đối với trường hợp người vi phạm đào, phá hủy mồ mả, chiếm đoạt tài sản trong mồ mả hoặc trên mồ mả, hoặc có hành vi khác xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt.
- Bị án tù từ 02 năm đến 07 năm, nếu vi phạm thuộc một trong những trường hợp sau đây:
- Gây ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
- Chiếm đoạt hoặc phá hủy tài sản có giá trị lịch sử, văn hóa;
- Với động cơ đê hèn;
- Chiếm đoạt bộ phận.
4. Phạm tội xâm phạm mồ mả có phải bồi thường không?
Bên cạnh việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trong trường hợp thiệt hại xảy ra do hành vi xâm phạm mồ mả, người phạm tội phải thực hiện trách nhiệm bồi thường, dù người bị ảnh hưởng còn sống hoặc đã qua đời.
Theo quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 của Điều 607 trong Bộ luật Dân sự 2015, khi xâm phạm mồ mả của người khác, cả cá nhân lẫn tổ chức phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, bao gồm:
- Chi phí hợp lý để giới hạn và khắc phục thiệt hại gây ra bởi hành vi xâm phạm.
- Một khoản tiền để đền bù tổn thất tinh thần của những người thân thích thuộc theo thứ tự ưu tiên của người đã qua đời (nếu không có những người này, thì người trực tiếp nuôi dưỡng người đã qua đời). Mức tiền bồi thường để đền bù tổn thất tinh thần được thỏa thuận giữa các bên liên quan; nếu không thỏa thuận được, mức tối đa cho mỗi mồ mả bị xâm phạm không vượt quá ba mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định (mức lương cơ sở là 1.490.000 đồng/tháng theo quy định tại Khoản 2 của Điều 3 trong Nghị định số 38/2019/NĐ-CP).
5. Bốn dấu hiệu cấu thành tội xâm phạm mồ mả
5.1. Khách thể
Tội xâm phạm mồ mả liên quan đến sự kính trọng và bảo vệ của thi thể, phần mộ và hài cốt của người đã qua đời, cũng như sự tôn trọng đối với các giá trị văn hóa, phong tục và tập quán của dân tộc Việt Nam. Hành vi này không chỉ ảnh hưởng đến yếu tố trật tự và an toàn, mà còn đến những gì được coi là quý báu và thiêng liêng trong văn hóa và truyền thống của cộng đồng.
5.2. Mặt khách quan
Tội xâm phạm mồ mả bao gồm 03 hành vi chính: đào, phá mồ mả; chiếm đoạt những đồ vật để ở trong mộ, trên mộ; và các hành vi tội xâm phạm thi thể mồ mả hài cốt:
- Hành vi đào, phá mồ mả dựng ra việc huỷ hoại hoặc làm hư hỏng mồ mả, khiến cho mộ không còn nguyên vẹn như trước nhằm mục đích chiếm đoạt những đồ vật quý hiếm để đặt trong quan tài chôn cùng người quá cố, trả thù thân nhân người quá cố, hoặc che giấu các hành vi phạm tội;
- Hành vi chiếm đoạt những đồ vật để ở trong mộ hoặc trên mộ thường đi kèm với hành vi đào, phá mồ mả (đào mộ để chiếm đoạt đồ vật để đặt trong quan tài). Tuy nhiên, cũng có trường hợp người phạm tội không thực hiện hành vi đào, phá mồ mả mà vẫn chiếm đoạt những đồ vật để ở trong mộ hoặc trên mộ, ví dụ như lợi dụng việc đổi mộ (bốc hài cốt) để chiếm đoạt các đồ trang sức chôn cùng người quá cố hoặc lấy các đồ vật có giá trị để trên mộ (bát hương, lọ hoa, di ảnh...).
Hậu quả của tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này, và tội phạm được xem là hoàn thành từ thời điểm có hành vi.
5.3. Chủ thể
Tội xâm phạm thi thể mồ mả hài cốt không yêu cầu chủ thể đặc biệt; bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự đều có thể là chủ thể của tội phạm này.
Bộ luật Hình sự không định rõ về năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng nó loại trừ trách nhiệm hình sự đối với những người trong tình trạng bị bệnh tâm thần hoặc mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của họ. Người có năng lực trách nhiệm hình sự là những người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội khi vẫn có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của họ.
Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự xác định rằng người từ đủ 16 tuổi trở lên chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ chịu trách nhiệm hình sự đối với các tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng được quy định tại một số Điều 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 thuộc Chương XXI Bộ luật Hình sự.
Do đó, chủ thể của tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt phải là người từ đủ 16 tuổi trở lên.
5.4. Mặt chủ quan
Chủ thể thực hiện tội phạm với lối hành vi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Người phạm tội thường nhận thức rõ rằng hành vi của mình có thể gây nguy hiểm cho xã hội, họ thường thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
Tuy nhiên, cũng có trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình có thể gây nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả có thể xảy ra, nhưng họ không mong muốn những hậu quả đó xảy ra.
6. Hướng dẫn yêu cầu bồi thường thiệt hại
Khi bị xâm phạm về thi thể, mồ mả thì có thể nộp đơn khởi kiện để yêu cầu bồi thường thiệt hại. Sau đây, Luật Ánh Ngọc sẽ hướng dẫn Quý bạn đọc thủ tục yêu cầu bồi thường thiệt hại do tội xâm phạm thi thể mồ mả hài cốt.
Bước 1: Soạn đơn khởi kiện. Hiện nay, đơn khởi kiện thường được viết theo Mẫu số 23-DS. Đơn khởi kiện cần tuân thủ các yêu cầu sau đây:
- Ngày, tháng, năm khi viết đơn khởi kiện;
- Tên của Tòa án mà bạn định gửi đơn khởi kiện đến;
- Thông tin cá nhân hoặc trụ sở của người khởi kiện, người bị khởi kiện;
- Quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm, và những vấn đề cụ thể mà bạn muốn Tòa án giải quyết đối với người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
- Thông tin về những người làm chứng (nếu có);
- Danh sách các tài liệu và chứng cứ được đính kèm với đơn khởi kiện.
Bước 2: Nộp đơn khởi kiện tại Tòa án. Người khởi kiện cần gửi đơn khởi kiện cùng với các tài liệu và chứng cứ mà họ có đến Tòa án có thẩm quyền xử lý vụ án. Điều này có thể được thực hiện qua một trong các phương thức sau:
- Nộp trực tiếp tại Tòa án;
- Gửi đơn khởi kiện đến Tòa án qua dịch vụ bưu chính;
- Gửi đơn khởi kiện trực tuyến thông qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án.
Bước 3: Tòa án tiếp nhận và xem xét đơn khởi kiện
- Khi Tòa án nhận được đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ đính kèm, Tòa án sẽ tiến hành xem xét để xác định xem vụ án có thuộc thẩm quyền xử lý của Tòa án hay không. Trong trường hợp vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án, Thẩm phán phải thông báo cho người khởi kiện để họ có thể đến Tòa án để tiến hành nộp tiền tạm ứng án phí nếu cần thiết;
- Trong vòng 07 ngày kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp số tiền tạm ứng án phí và cung cấp biên lai cho Tòa án;
- Tòa án sẽ tiếp nhận và thụ lý vụ án sau khi hoàn tất các bước trên.
Trên đây là toàn bộ thông tin giải đáp của Luật Ánh Ngọc về tội xâm phạm mồ mả. Có thể thấy, người phạm tội xâm phạm mồ mả không chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà còn có trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với hành vi do mình gây ra. Tùy thuộc vào từng mức độ nguy hiểm của hành vi mà mức phạt cũng khác nhau.