1. Đầu cơ là gì?
Đầu cơ là hành vi mua vào một số lượng lớn một số số sản phẩm, hàng hóa khi thị trường mất ổn định nhằm chờ cơ hội thu lợi bán ra từ việc mất ổn định của thị trường bằng cách bán giá cao nhiều lần so với giá thông thường của loại hàng hóa đó.
Ví dụ: Trong đợt dịch covid mới lây lan ở Việt Nam, do nhu cầu sử dụng khẩu trang dần tăng cao nên nhiều người đã mua gom tích trữ rất nhiều khẩu trang, đến thời điểm dịch bùng mạnh mới bán ra với giá cao ngất ngưởng gấp 3-4 lần giá thị trường khi chưa có dịch bệnh.
Có thể thấy, hành vi đầu cơ này có thể diễn ra trong thời gian dài ở giai đoạn mua, tích lũy hàng hóa, còn thời gian để bán thì thường diễn ra trong thời gian ngắn.
2. Cấu thành tội phạm của tội đầu cơ trong luật hình sự
2.1. Tội đầu cơ quy định trong Bộ luật hình sự
Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định tội đầu cơ tại Chương XVIII về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, Mục 1 các tội phạm trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại, tại Điều 196, theo đó tội đầu cơ được hiểu là một hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Bộ luật hình sự, do người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội với lỗi cố ý, cố ý lợi dụng tình khan hiểm hoặc tạo ra sự khan hiếm giả tạo trong tình hình thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh hoặc mua vét hàng hóa thuộc danh mục mặt hàng bình ổn giá hoặc thuộc danh mục hàng hóa được Nhà nước định giá nhằm bán lại để thu lợi bất chính thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 196 Bộ luật hình sự và phải chịu hình phạt.
Điều 196 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về tội đầu cơ có 5 khoản, trong đó quy định rõ các hình phạt đối với cá nhân và pháp nhân riêng, các tình tiết tăng nặng định khung hình phạt được áp dụng.
2.2. Dấu hiệu pháp lý nhận biết tội đầu cơ
Để có thể xác định được khi nào hành vi này là tội đầu cơ thì hành vi thực hiện cần phải thỏa mãn các yếu tố sau:
a) Khách thể của tội đầu cơ
Khách thể của tội đầu cơ trong quy định của luật hình sự là trật tự quản lý trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại, đồng thời là lợi ích của người tiêu dùng. Vì vậy, nếu hành vi phạm tội không xâm phạm đến các quan hệ này thì sẽ không phải chịu trách nhiệm về tội đầu cơ mà sẽ là tội khác thỏa mãn về khách thể của tội phạm.
b) Mặt khách quan của tội đầu cơ
Mặt khách quan của tội đầu cơ trong quy định của luật hình sự được thể hiện ở hành vi lợi dụng tình hình khan hiếm, tạo ra sự khan hiếm giả trong tình hình thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh, tình hình khó khăn về kinh tế để mua vét hàng hóa bình ổn giá hoặc được Nhà nước định giá nhằm bán lại thu lợi bất chính.
Tức là tội phạm này chỉ có thể được thực hiện khi có chiến tranh, tình hình thiên tai như bão lũ, ngập lụt,.., dịch bệnh, chiến tranh hoặc tình hình khó khăn về kinh tế, nếu một người thực hiện hành vi trên nhưng không thuộc một trong những hoàn cảnh trên thì không bị coi là phạm tội đầu cơ mà sẽ là tội khác như lừa đảo chiếm đoạt tài sản,…
Những mặt hàng bình ổn giá hoặc được nhà nước định giá là những mặt hàng có giá cố định, phù hợp với cung – cầu trên thị trường, sau đó người phạm tội bán lại với giá quá cao để thu lợi bất chính từ chỗ chênh lệch giá.
c) Mặt chủ quan của tội đầu cơ
Mặt chủ quan của tội phạm được thể hiện ở các yếu tố lỗi, động cơ, mục đích, trong đó yếu tố lỗi là yếu tố quan trọng, bắt buộc.
Lỗi trong tội đầu cơ trong quy định của luật hình sự được thực hiện với lỗi cố ý, từ là người phạm tội nhận thức rõ được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội nhưng vẫn thực hiện hành vi đó.
d) Chủ thể của tội đầu cơ
Chủ thể của tội đầu cơ trong quy định của luật hình sự gồm có cá nhân là người từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự và pháp nhân thương mại thỏa mãn các điều kiện được quy định tại Điều 75 Bộ luật hình sự.
Trên đây là những dấu hiệu pháp lý nhận biết tội đầu cơ, phân biệt tội này với tội khác, trong đó yếu tố quan trọng nhất là hành vi khách quan của tội phạm.
3. Hình phạt của tội đầu cơ trong luật hình sự
Vì chủ thể của tội phạm bao gồm cả cá nhân và pháp nhân, vì vậy hình phạt đối với hai chủ thể này cũng khác nhau và đã được quy định cụ thể tại Điều 196 Bộ luật hình sự.
3.1. Các tình tiết định tội, định khung tăng nặng của tội đầu cơ trong luật hình sự
Về tình tiết định tội được quy định tại khoản 1:
- Phạm tội mà thu mua hàng hóa trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng: tức là hàng hóa mà người phạm tội mua vét có giá trị bán ra với giá bình ổn, giá nhà nước niêm yết từ 500 triệu đến dưới 1 tỷ 500 triệu đồng.
- Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng. Trường hợp này sẽ áp dụng khi mà trị giá hàng mua vét chưa đến 5000 triệu đồng nhưng phần lãi thu được bất chính từ việc bán hàng của người phạm tội là từ 100 triệu đến dưới 500 triệu.
Về tình tiết định khung tăng tặng tại khoản 2, 3:
- Phạm tội có tổ chức: tức là có từ 02 người phạm tội trở lên cùng thực hiện tội phạm, có sự cấu kết chặt chẽ với nhau.
- Làm dụng chức vụ, quyền hạn: là trường hợp người phạm tội là người có quyền hạn, chức vụ và họ đã lợi dụng điều này để phạm tội.
- Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức phạm tội: tức là người phạm tội làm việc trong một cơ quan, tổ chức nào đó hoặc được giao việc nên đã sử dụng danh nghĩa của cơ quan, tổ chức để thực hiện hành vi phạm tội đầu cơ trong luật hình sự.
- Hàng hóa trị giá từ 1.500.000.000 đồng trở lên.
- Thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng trở lên.
- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
- Tái phạm nguy hiểm: tức là đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích hoặc đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội đầu cơ trong luật hình sự.
3.2. Hình phạt đối với cá nhân phạm tội
Tội đầu cơ trong quy định của luật hình sự quy định hình phạt đối với cá nhân phạm tội như sau:
Về hình phạt chính:
- Phạt tiền: Người phạm tội sẽ bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng nếu vi phạm khoản 1 Điều 196; phạt từ 300.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng nếu vi phạm khoản 2 chứa các tình tiết định khung tăng nặng.
- Phạt tù có thời hạn: người phạm tội sẽ bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm nếu vi phạm khoản 1 Điều 196, phạt từ 03 năm đến 07 năm nếu vi phạm khoản 2 Điều 196.
Có thể thấy, nếu vi phạm khoản 1 thì tội này là tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, là cấu thành cơ bản của tội đầu cơ trong quy định của luật hình sự. Còn nếu vi phạm khoản 2 thì thuộc trường hợp phạm tội nghiêm trọng, là cấu thành tội phạm tăng nặng của tội đầu cơ trong luật hình sự.
Về hình phạt bổ sung: hình phạt bổ sung khi cá nhân phạm tội đầu cơ trong luật hình sự quy định tại khoản 4 Điều 196, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng nếu hình phạt chính được áp dụng là phạt tù có thời hạn; hoặc bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 đến 05 năm.
3.3. Hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội
Về hình phạt chính đối với pháp nhân thương mại phạm tội đầu cơ trong luật hình sự quy định là phạt tiền, trong đó:
- Phạt từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng nếu thuộc khoản 1 Điều 196;
- Phạt từ 1.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 đồng nếu vi phạm điểm a, d, đ và e khoản 2 Điều 196;
- Phạt từ 4.000.000.000 đồng đến 9.000.000.000 đồng nếu vi phạm khoản 3 Điều 196 Bộ luật hình sự.
Đối với hình phạt bổ sung đối với pháp nhân thương mại phạm tội đầu cơ trong quy định của luật hình sự là phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng; hoặc cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn trong thời gian từ 01 đến 03 năm.
Trên đây là những tư vấn của Luật Ánh Ngọc về Đầu cơ là gì? Tội đầu cơ trong quy định của luật Hình sự. Nếu bạn còn có những thắc mắc liên quan cũng như cần hỗ trợ, tư vấn về pháp luật, vui lòng liên hệ đến Luật Ánh Ngọc để được đội ngũ luật sư có nhiều năm kinh nghiệm của Luật Ánh Ngọc tư vấn, giải đáp.