N và A đều sinh năm 2005 hiện đang là hai học sinh lớp 12 trường THPT X. Sau khi tham dự kì thi tốt nghiệp THPT năm nay thì cả N và A đều không đạt được kết quả như mong đợi và cả hai cùng không đỗ đại học. Vì lí do đó nên N đã ngỏ lời muốn kết hôn cùng A và sau đó cả hai cùng ở nhà kinh doanh thay vì đi học tiếp. Liệu N và A có thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn được hay không? Hành vi của N và A có được cho là tảo hôn hay không?
1. Tảo hôn là gì?
1.1. Thế nào là tảo hôn
Khoản 8 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định: Tảo hôn là việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8 của Luật này.
Như vậy, tảo hôn ở Việt Nam là việc vi phạm quy định tuổi kết hôn, là một trong những hành vi vi phạm Luật Hôn nhân gia đình.
Căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về điều kiện kết hôn:
“1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
Như vậy có thể thấy, tảo hôn là việc hai bên nam nữ kết hôn với nhau khi một hoặc cả hai bên chưa đủ điều kiện về độ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật, tức nam lấy vợ khi chưa đủ 20 tuổi, nữ lấy chồng khi chưa đủ 18 tuổi hoặc nam chưa đủ 20 tuổi và nữ chưa đủ 18 tuổi kết hôn.
1.2. Các trường hợp tảo hôn
Trên thực tế, tảo hôn có 2 trường hợp bao gồm: Tảo hôn đã đăng ký kết hôn và Tảo hôn chưa đăng ký kết hôn.
- Đã đăng ký kết hôn: Tảo hôn chưa đủ độ tuổi do tự nguyện hoặc ép buộc và đã đăng ký kết hôn.
- Chưa đăng ký kết hôn: Tảo hôn khi chưa đủ độ tuổi quy định nhưng 2 bên đã quyết định về sống chung như vợ chồng và chưa đăng ký kết hôn.
2. Cách tính tuổi để đủ điều kiện kết hôn
Theo đó, đến thời điểm hiện tại là năm 2018 thì vẫn áp dụng quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, do đó, độ tuổi đăng ký kết hôn đối với nam là từ đủ 20 tuổi, còn đối với nữ là từ đủ 18 tuổi.
Và để xác định chính xác số tuổi được phép kết hôn, Điều 2 Thông tư liên tịch số 01/2016 hướng dẫn như sau: Nam đã đủ 20 tuổi, nữ đã đủ 18 tuổi trở lên; tuổi nam, nữ xác định theo ngày, tháng, năm sinh. Nếu không xác định được ngày, tháng, năm sinh thì thực hiện như sau:
- Xác định được năm sinh, không xác định được tháng sinh: Tháng sinh là tháng 01 của năm sinh.
- Xác định được năm sinh, tháng sinh, không xác định được ngày sinh: Ngày sinh là ngày 01 của tháng sinh.
Ngoài ra, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, để xác định tuổi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cần phải áp dụng mọi biện pháp để xác định chính xác ngày, tháng, năm sinh của họ căn cứ vào một trong các giấy tờ, tài liệu sau:
- Giấy chứng sinh;
- Giấy khai sinh;
- Chứng minh nhân dân;
- Thẻ căn cước công dân;
- Sổ hộ khẩu;
- Hộ chiếu.
Các chứng cứ đó phải do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thu thập theo trình tự, quy định của pháp luật.
Trường hợp các chứng cứ trên có mâu thuẫn, không rõ ràng hoặc không có giấy tờ, tài liệu này thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải phối hợp với cá nhân, tổ chức có liên quan nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động, sinh hoạt trong việc hỏi, lấy lời khai, xác minh làm rõ mâu thuẫn hoặc tìm các giấy tờ, tài liệu khác có giá trị chứng minh về tuổi của người đó.
Trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp nhưng chỉ xác định được khoảng thời gian tháng, quý, nửa đầu hoặc nửa cuối của năm hoặc năm sinh thì tùy từng trường hợp cụ thể cần căn cứ khoản 2, 3 Điều 417 Bộ luật Tố tụng hình sự để xác định tuổi của họ như sau:
- Trường hợp xác định được tháng nhưng không xác định được ngày thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh.
- Trường hợp xác định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh.
- Trường hợp xác định được nửa của năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh.
- Trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh.
- Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám địnhđộ tuổi để xác định tuổi và lấy tuổi thấp nhất trong khoảng độ tuổi đã xác định được để xác định tuổi của họ khi chỉ xác định được khoảng độ tuổi bị can, bị cáo, bị hại.
Ví dụ, đối với trường hợp của A và N, hai bạn không cung cấp đầy đủ thông tin về ngày tháng năm sinh nên công ty xin phép xác định ngày sinh của hai bạn là 30/12/2005. Tính đến thời điểm hiện tại là ngày 30/06/2023 thì A được 17 tuổi 6 tháng và N cũng tương tự là được 17 tuổi 6 tháng. Như vậy, cả A và N đều chưa đủ điều kiện để kết hôn theo quy định về pháp luật. Chính vì vậy, năm 2023 cả A và N đều chưa thể đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật. Nếu cả hai muốn kết hôn thì phải đợi đến ngày 31/12/2025, khi N đã đủ 20 tuổi, đủ điều kiện về độ tuổi để kết hôn theo quy định của pháp luật.
3. Tảo hôn có vi phạm pháp luật hay không?
Theo quy định tại Khoản 8 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì tảo hôn ở Việt Nam là việc vi phạm quy định tuổi kết hôn, là một trong những hành vi vi phạm Luật Hôn nhân gia đình.
Chiếu theo điểm a khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về điều kiện kết hôn :Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên. Như vậy có thể thấy, tảo hôn là việc hai bên nam nữ kết hôn với nhau khi một hoặc cả hai bên chưa đủ điều kiện về độ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật, tức nam lấy vợ khi chưa đủ 20 tuổi, nữ lấy chồng khi chưa đủ 18 tuổi. Tảo hôn vi phạm Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về điều kiện kết hôn.
Như vậy, tảo hôn là một trong những hành vi trái pháp luật và bị pháp luật cấm.
Một câu hỏi đặt ra là tảo hôn là kết hôn khi nam chưa đủ 20 tuổi và nữ chưa đủ 18 tuổi. Vậy nên khi kết hôn thì cả hai sẽ phát sinh quan hệ tình dục, vậy thì người nam sẽ bị xử phạt theo Bộ luật hình sự về tội quan hệ với trẻ em nếu như người nữ chưa đủ 16 tuổi. Tuy nhiên, nếu cả hai không quan hệ tình dục thì liệu có vi phạm pháp luật hay không? Câu trả lời là có bởi vì tảo hôn là hành vi trái pháp luật. Do đó, dù trong trường hợp các bên tảo hôn nhưng không quan hệ tình dục vẫn bị coi là vi phạm pháp luật và phải chịu các biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật. Việc kết hôn sẽ không được pháp luật công nhận. Các quyền lợi vợ chồng sẽ không được pháp luật bảo vệ.
4. Nguyên nhân và hậu quả của tảo hôn
4.1. Nguyên nhân của tình trạng tảo hôn
Đứng trước tình trạng tảo hôn đáng báo động trong cả nước, việc tìm ra nguyên nhân là vấn đề quan trọng để xây dựng các giải pháp hữu hiệu ngăn chặn vấn nạn này. Những nguyên nhân của vấn nạn này có thể kể đến như:
- Sự hiểu biết của người dân còn yếu kém
Tại các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, kiến thức của người dân về hôn nhân còn khá hạn chế. Bên cạnh đó, sự phổ cập kiến thức cũng như điều kiện học tập ở những vùng này còn vô cùng khó khăn, họ không thể hiểu hết những tác hại do tảo hôn gây ra. Bởi vậy, người dân không có nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của vấn đề dân số và những hệ lụy mà xã hội có thể gặp phải trong tương lai. Ngoài ra, vấn nạn tảo hôn không chỉ xảy ra ở những vùng sâu vùng xa mà còn tồn tại ở các tỉnh thành phố. Đó là nơi công tác tuyên truyền về hôn nhân và gia đình chưa được triển khai triệt để. Tuy biết nhưng người dân vẫn vi phạm.
- Phong tục tập quán lạc hậu
Phong tục tập quán đã ăn sâu trong tiềm thúc của những người dân tộc thiểu số bao đời nay. Đối với họ, việc lấy chồng lấy vợ chỉ cần sự chấp thuận của những người đứng đầu trong lành hay cha mẹ 2 bên. Không những vậy, do hạn chế của cuộc sống khiến nhà nào cùng muốn con có con đàn cháu đống để phụ giúp gia đình. Nhà nào có con gái thì muốn gả sớm để bớt miệng ăn. Nhà có con trai thì muốn cưới vợ sớm để có thêm lao động trong gia đình.
- Ảnh hưởng của suy nghĩ hiện đại hóa, lối sống phóng túng
Trong nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển như hiện nay, quan niệm sống của con người cũng trở nên cởi mở hơn. Họ không bị gò bó bởi những quan niệm cổ hủ xưa. Do đó, con người dễ dàng tạo dựng các mối quan hệ vợ chồng. Điều này dẫn tới tình trạng mang thai sớm là rất phổ biến. Đó cũng là nguyên nhân khách quan dẫn tới tình trạng tảo hôn.
- Các chế tài pháp luật chưa đủ sức răn đe
Pháp luật còn chưa kiên quyết trong việc quản lý đăng ký kết hôn. Hơn nữa, các chế tài của luật cũng chưa nghiêm khắc nên không có đủ sức răn đe. Thực tế cho thấy nhiều người vẫn chịu nộp phạt để họ được chung sống bình thường. Điều này dẫn tới tình trạng tảo hôn vẫn diễn ra vô cùng phổ biến.
- Công tác tuyên truyền giáo dục còn hạn chế
Với trình độ dân trí chưa cao. Người dân tộc thiểu số còn bất đồng ngôn ngữ với kiến thức luật pháp quy đinh. Điều này dẫn tới nhiều khó khăn trong việc tuyên truyền công tác chống tảo hôn đến người dân. Mặt khác, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật chống tình trạng tảo hôn vẫn chưa được cơ quan và các đơn vị có thẩm quyền quan tâm đúng mực.
4.2. Ảnh hưởng của việc tảo hôn
Đối với bản thân và gia đình: Làm mất đi cơ hội về học tập, việc làm tốt, cơ hội để cải thiện điều kiện sống và chăm sóc sức khỏe của bà mẹ và trẻ em, đặc biệt kết hôn cận huyết thống làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng dân số, suy giảm giống nòi và chất lượng nguồn nhân lực. Có nhiều em đang ngồi trên ghế nhà trường phải bỏ học để lấy vợ lấy chồng, mất cơ hội học tập, kinh nghiệm cuộc sống còn non trẻ, nhưng phải lo toan cuộc sống gia đình mà chủ yếu là làm nông nghiệp, lao động phổ thông nên cuộc sống gặp rất nhiều khó khăn kinh tế, cơ hội lập nghiệp và phát triển kinh tế gia đình bị hạn chế, đây là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng đói nghèo. Những gia đình tảo hôn thường có cuộc sống rất khó khăn, chưa hiểu biết nhiều về kiến thức nuôi dạy con cái, cũng như trách nhiệm, bổn phận của những người làm cha, làm mẹ, nên các cặp vợ chồng trẻ bị khủng hoảng về tâm lý, thường xảy ra mâu thuẫn. Hạnh phúc gia đình dễ bị rạn nứt, tỷ lệ ly hôn cao.
Đối với xã hội: Tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng dân số, suy giảm giống nòi, những cặp kết hôn cận huyết thống dù khoẻ mạnh nhưng khi kết hôn cận huyết làm tăng tỷ lệ bệnh tật do kết hợp gen mang lại, gây suy thoái chất lượng giống nòi, họ có thể sinh ra những đứa con bị dị dạng hoặc bệnh tật di truyền mở đầu cho cuộc sống tàn phế suốt đời mà nhiều chuyên gia Y tế đã cảnh báo như: Bệnh mù màu (không phân biệt được màu xanh, màu đỏ); bệnh bạch tạng, da vẩy cá; bệnh tan máu bẩm sinh (thalassemia)...
4.3. Hậu quả pháp lý của tảo hôn
Theo quy định pháp luật, hành vi tảo hôn rõ ràng là một hành vi trái pháp luật và bị pháp luật cấm.Vậy hành vi này sẽ bị xử lý theo quy định pháp luật như thế nào?
Với trường hợp tảo hôn có đăng ký kết hôn thì hành vi kết hôn đó là trái pháp luật và có thể bị hủy khi có yêu cầu của những người có quyền yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật. Theo thủ tục Bộ luật Tố tụng dân sự quy định, Tòa án có thẩm quyền xem xét về điều kiện độ tuổi khi kết hôn để xử lý.
Trong trường hợp tại thời điểm Tòa án giải quyết yêu cầu hủy hành vi kết hôn trái pháp luật mà cả hai bên kết hôn đã có đủ các điều kiện kết hôn (ở trường hợp này là đủ tuổi kết hôn theo quy định) và hai bên yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân đó. Trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm các bên đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân gia đình.
Hành vi kết hôn sẽ bị hủy nếu như tại thời điểm xem xét yêu cầu hủy kết hôn, một trong hai bên không đủ điều kiện về độ tuổi hoặc một trong hai bên không yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân đó.
Khi hành vi kết hôn trái pháp luật do hành vi tảo hôn bị hủy sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý sau:
- Hai bên kết hôn phải chấm dứt quan hệ như vợ chồng.
- Quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con (Nếu hai bên đã có con với nhau) được giải quyết theo quy định về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con khi ly hôn.
- Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định về giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.
Điều 47, Nghị định 82/2020/NĐ-CP của chính phủ về hành vi xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã quy định có thể xử phạt hành chính hành vi tảo hôn khi Tòa án nhân dân có thẩm quyền đã ra quyết định buộc chấm dứt quan hệ vợ chồng với người chưa đủ tuổi nhưng vẫn cố ý duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật. Ngoài ra, còn xử phạt hành chính với hành vi tổ chức tảo hôn (tổ chức lấy vợ, lấy chồng cho người chưa đủ tuổi lết hôn)
Bộ luật Hình sự 2015 đã bỏ quy định về tội tảo hôn. Tuy nhiên, vẫn có quy định truy cứu trách nhiệm Hình sự về tôi tổ chức tảo hôn. Cụ thể, Điều 183 Bộ luật Hình sự 2015 quy định tội tổ chức tảo hôn. Theo quy định này, trường hợp tảo hôn bị xử lý hình sự khi người thực hiện hành vi tổ chức hành vi lấy vợ, lấy chồng cho những người chưa đủ điều kiện về độ tuổi để kết hôn đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn tiếp tục vi phạm. Theo đó, mức xử phạt được quy định là phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.
Tình yêu dù là ở độ tuổi nào vẫn luôn đẹp đẽ, đáng trân trọng và nâng niu, gìn giữ. Một tình yêu đẹp và hạnh phúc sẽ có đích đến là một cuộc hôn nhân, một gia đình trọn vẹn. Tuy nhiên, không phải tình yêu ở bất kì độ tuổi nào cũng có thể kết hôn mà đôi lứa chỉ có thể kết hôn khi có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân gia đình. Những trường hợp kết hôn khi không đủ tuổi sẽ là hành vi vi phạm pháp luật và sẽ phải chịu những hậu quả pháp lý nặng nề. Chính vì vậy, qua bài viết này, Luật Ánh Ngọc xin được chia sẻ đến quý vị những thông tin liên quan đến tảo hôn. Với những thông tin được chia sẻ trên đây, Luật Ánh Ngọc hy vọng giải đáp được phần nào thắc mắc của quý vị. Để biết thêm chi tiết về các quy định cấp dưỡng, quý khách hàng có thể liên hệ với Công ty Luật Ánh Ngọc qua trang web. Hy vọng những thông tin được Luật Ánh Ngọc chia sẻ trong bài viết đem lại những lợi ích tốt nhất cho quý khách hàng.
Với sự hỗ trợ chuyên nghiệp của các luật sư, khách hàng có thể yên tâm tin tưởng vào chất lượng dịch vụ và đạt được kết quả như mong muốn. Công ty Luật Ánh Ngọc luôn sẵn sàng trao đổi, hỗ trợ Quý khách hàng những thông tin cần thiết trong quá trình khách hàng thực hiện cấp dưỡng nuôi con. Xin vui lòng liên hệ Công ty Luật Ánh Ngọc để được tư vấn cụ thể.