1. Khái niệm thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
Thời hiệu "truy cứu trách nhiệm hình sự" là một khung thời gian xác định bắt đầu từ một điểm thời điểm cụ thể và kết thúc tại một điểm thời điểm khác, được quy định bởi Bộ luật Hình sự. Chỉ có thể tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một cá nhân trong khung thời gian được quy định bởi pháp luật. Nếu đã vượt quá thời hạn này mà không tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, thì họ sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trừ khi có các trường hợp đặc biệt được quy định tại Điều 28 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
2. Bình luận về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
Các quy định tại Điều 23 đã quy định rõ ràng xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Thời gian được quy định bởi Bộ luật hình sự, sau khi qua thời hạn này, người phạm tội sẽ không bị kết án trách nhiệm hình sự. Nếu trong khoảng thời gian quy định trước đó, người phạm tội lại vi phạm pháp luật với mức cao nhất của hình phạt là trên một năm tù, thì thời gian trước đó sẽ không được tính và thời hiệu đối với tội trước đó sẽ bắt đầu lại từ ngày vi phạm mới.
Bình luận về vấn đề này, có một số ý kiến cho rằng việc quy định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự có ý nghĩa quan trọng, không chỉ đảm bảo tính răn đe của luật pháp mà còn thúc đẩy sự chịu trách nhiệm của các cơ quan thực thi pháp luật và người thực thi pháp luật trong việc điều tra và khám phá các tội ác. Ngoài ra, quy định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự cũng mang tính nhân đạo, tạo điều kiện cho con người để cải thiện và sửa chữa sai lầm đã xảy ra.
Tìm hiểu chi tiết các quy định tại Điều 23, cho thấy rằng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự bắt đầu tính từ ngày tội phạm được thực hiện và hoàn thành, trong đó người phạm tội đã thực hiện hành vi đe dọa xã hội mà Bộ luật Hình sự đề cập tới trong bốn loại tội phạm cùng một thời gian được nêu ở mục 2 của Điều 23 Bộ luật hình sự. Trường hợp người phạm tội không bị kết án trách nhiệm hình sự do hết thời hiệu, thì ngoài thời gian quy định trong mục 2 của Điều 23, người phạm tội cần không thực hiện hành vi trốn tránh và không vi phạm pháp luật mới với mức hình phạt cao nhất là trên một năm tù.
Xem thêm bài viết: Chuẩn bị hung khí đánh nhau nhưng chưa thực hiện có bị xử lý hình sự?
3. Một số vướng mắc về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
Trong thực tế áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm, có một số ý kiến cho rằng quy định tại Điều 23 Bộ luật hình sự, nếu áp dụng cho trường hợp việc phạm tội cá nhân, thì có tính khả thi, nhưng khi xảy ra tình huống phạm tội theo hình thức đồng phạm với một số người bỏ trốn và một số không bỏ trốn, cách tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự lại gây ra sự không đồng nhất trong việc hiểu và áp dụng quy định này. Có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này, một ví dụ cụ thể như sau:
- Ngày 10-4-2000, Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn M và Bùi Quốc T đã thực hiện tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự 2015.
- Ngày 15-4-2000, cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án và đưa ra quyết định khởi tố bị can đối với Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn M và Bùi Quốc T về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138, của Bộ luật hình sự 2015. Do Nguyễn Văn H đã bỏ trốn, nên vào ngày 20-4-2000, cơ quan điều tra đã ra lệnh truy nã đối với Nguyễn Văn H và tạm đình chỉ vụ án đối với Nguyễn Văn M và Bùi Quốc T.
- Ngày 23-4-2008, Hoàng Văn H bị bắt giữ theo lệnh truy nã, và cơ quan điều tra đã tiếp tục điều tra vụ án. Vào ngày 15-8-2008, cơ quan điều tra đã hoàn thành điều tra và đề nghị Viện kiểm sát nhân dân huyện Q truy tố các bị can Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn M và Bùi Quốc T về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự 2015.
Bàn luận về vấn đề này, khi xem xét đề nghị truy tố, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q đã xem xét hai quan điểm khác nhau về việc tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Văn M và Bùi Quốc T:
- Đối với quan điểm thứ nhất cho rằng:
Việc Nguyễn Văn H bỏ trốn không thể khiến Nguyễn Văn M và Bùi Quốc T phải chịu trách nhiệm về việc bỏ trốn của Hoàng Văn H.
Do đó, trong trường hợp này, chỉ có thể truy tố Nguyễn Văn H mà thôi, và Nguyễn Văn M và Bùi Quốc T đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Lý do là một trong những nguyên tắc cơ bản trong hệ thống luật hình sự của nước ta là trách nhiệm cá nhân. Trong trường hợp có đồng phạm hoặc nhiều người tham gia, trách nhiệm hình sự luôn là trách nhiệm cá nhân, và nếu các cơ quan tiến hành tố tụng không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người không bỏ trốn và không có lệnh truy nã, thì sau khi hết thời hiệu đó, họ không thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nữa, ngay cả khi họ bỏ trốn và cơ quan điều tra "quên" không ra lệnh truy nã.
- Đối với quan điểm thứ hai cho rằng:
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn M và Bùi Quốc T là 5 năm tính từ ngày 10-4-2000, nhưng vì Nguyễn Văn H đã bỏ trốn, nên thời gian tạm đình chỉ điều tra không được tính vào thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
Tòa án tối cao đồng tình với quan điểm này, và cho rằng mặc dù Nguyễn Văn M và Bùi Quốc T không bỏ trốn, nhưng cơ quan điều tra đã khởi tố bị can đối với họ, tức là từ khi khởi tố bị can trở đi, thời gian điều tra, truy cứu, xét xử có thể kéo dài do nhiều lý do khác nhau, và thời gian này không được trừ vào thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo quan điểm này, sau khi Nguyễn Văn H bị bắt giữ theo lệnh truy nã, cơ quan điều tra đã phục hồi điều tra đối với cả Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn M và Bùi Quốc T, chứ không chỉ là Nguyễn Văn H.
Đối với quan điểm trên, chúng tôi ủng hộ quan điểm thứ nhất, bởi vì cho rằng việc áp dụng quan điểm thứ hai sẽ tạo ra một sự không công bằng đối với Nguyễn Văn M và Bùi Quốc T. Mặc dù họ không bỏ trốn, cuộc sống của họ đã ổn định trong khoảng thời gian mà Nguyễn Văn H bỏ trốn, và họ không còn đe dọa cho xã hội. Việc vẫn tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ sau khi Nguyễn Văn H bị bắt giữ sẽ là không công bằng. Điều này cũng không phù hợp với quy định tại Điều 165 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 mà đề nghị cơ quan tố tụng xem xét và xử lý vụ án một cách công bằng và hợp lý, khách quan.
4. Cách tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
Việc xác định thời điểm phạm tội thường đơn giản, tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt như tội liên tục hoặc hành vi chuẩn bị tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, việc xác định thời điểm phạm tội có thể phức tạp hơn:
- Đối với các tội liên tục, thời điểm truy cứu trách nhiệm hình sự bắt đầu từ ngày thực hiện hành vi cuối cùng trong chuỗi hành vi tội phạm;
- Đối với hành vi chuẩn bị tội phạm (rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng) và hành vi phạm tội chưa đạt, thời điểm truy cứu trách nhiệm hình sự tính từ ngày hành vi phạm tội bị chấm dứt về mặt pháp lý do các nguyên nhân bất khả kháng ngoài ý muốn của người phạm tội, khiến họ không thể hoàn thành tội phạm;
- Trong trường hợp phạm nhiều tội, thời điểm truy cứu trách nhiệm hình sự bắt đầu từ ngày thực hiện tội đầu tiên trong số các tội bị phát hiện và người phạm tội bị đưa ra xét xử;
- Trong trường hợp phạm tội nhiều lần, thời điểm truy cứu trách nhiệm hình sự bắt đầu từ ngày thực hiện tội đầu tiên trong số các tội bị phát hiện và người phạm tội bị đưa ra xét xử.
Nếu có nhiều người trong một vụ đồng phạm, thì thời điểm phạm tội sẽ được xác định dựa trên vai trò và hành vi của mỗi người trong nhóm đồng phạm đó để xác định lại.
Xem thêm bài viết: Phạm tội giết người chưa đạt phải đi tù bao nhiêu năm theo pháp luật quy định?
Uống rượu say đánh người khác gây thương tích thì xử phạt như thế nào?
Bài viết trên đây nói về một số những vướng mắc về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Để biết thêm các thông tin và được tư vấn chuyên sâu, hãy liên hệ tới Luật Ánh Ngọc để được hỗ trợ và giải quyết kịp thời về vấn đề này, hoặc những vấn đề khách mà Quý khách cần được tư vấn. Với đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm sẽ hỗ trợ Quý khách về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.