1. Căn cứ pháp luật
2. Loại trừ trách nhiệm hình sự là gì?
Loại trừ trách nhiệm hình sự là một khái niệm trong lĩnh vực pháp luật, cho phép một cá nhân hoặc tổ chức không bị truy tố hoặc xử lý hình sự cho một hành vi phạm tội được quy định trong luật pháp. Thông thường, loại trừ trách nhiệm hình sự được áp dụng trong những trường hợp đặc biệt, như khi hành vi của cá nhân hoặc tổ chức đó được coi là hợp lý và cần thiết để bảo vệ lợi ích chung của xã hội.
Tuy nhiên, điều kiện và giới hạn của loại trừ trách nhiệm hình sự phải được quy định rõ ràng và có sự kiểm soát, để tránh việc lạm dụng quyền lợi này để phạm tội và gây thiệt hại cho lợi ích chung của xã hội.
3. Các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hiện hành
3.1. Sự kiện bất ngờ
Sự kiện bất ngờ là một sự việc xảy ra một cách đột ngột, không được dự đoán trước. Đây là những sự kiện xảy ra ngoài ý muốn hoặc không được mong đợi, gây ảnh hưởng đến các hoạt động của con người và tạo nên những thay đổi đáng kể trong cuộc sống.
Các sự kiện bất ngờ có thể được phân loại vào nhiều lĩnh vực khác nhau như sự kiện tự nhiên (bão, động đất, lụt), sự kiện kinh tế (khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế), sự kiện xã hội (cuộc nổi dậy, chiến tranh, đảo chính), sự kiện chính trị (sự kiện bầu cử, các vụ bê bối chính trị) và những sự kiện cá nhân (tai nạn, bệnh tật), ...
Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
3.2. Tình trạng không có năng lực TNHS
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
3.3. Phòng vệ chính đáng
Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
Ví dụ: khi một người bị tấn công bởi một kẻ xấu và bị đe dọa tính mạng hoặc tài sản của mình. Trong trường hợp này, nếu người bị tấn công sử dụng lực lượng tối thiểu cần thiết để phòng vệ bản thân và bảo vệ tính mạng và tài sản của mình, hành vi đó sẽ được coi là phòng vệ chính đáng. Tuy nhiên, quyết định liệu một hành vi phòng vệ có phù hợp và chính đáng hay không sẽ được xem xét kỹ lưỡng và căn cứ vào các tình huống cụ thể, theo quy định của pháp luật.
Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này.
3.4. Tình thế cấp thiết
Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm.
Trong trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, thì người gây thiệt hại đó phải chịu trách nhiệm hình sự.
3.5. Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội
Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm. Trường hợp gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự.
3.6. Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ
Hành vi gây ra thiệt hại trong khi thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa thì không phải là tội phạm.
Người nào không áp dụng đúng quy trình, quy phạm, không áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa mà gây thiệt hại thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
3.7. Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên
Người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự.
4. So sánh loại trừ trách nhiệm hình sự với miễn trách nhiệm hình sự
4.1. Điểm giống nhau
Người được miễn hoặc được loại trừ trách nhiệm hình sự sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
4.2 Điểm khác nhau
Loại trừ trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự là hai khái niệm pháp lý liên quan đến trách nhiệm pháp luật của cá nhân. Tuy nhiên, hai khái niệm này có ý nghĩa và cách thức áp dụng khác nhau.
- Loại trừ trách nhiệm hình sự được coi là một hình thức kiểm soát hành vi phạm tội bằng cách loại trừ hoàn toàn trách nhiệm hình sự cho hành vi đó. Điều này có thể xảy ra khi người phạm tội không có khả năng hiểu biết đúng và kiểm soát được hành vi của mình hoặc không thấy trước được hành vi của mình có thể gây ra thiệt hại cho xã hội. Trong một số trường hợp, người phạm tội không bị kết án, mà có thể được đưa đến các cơ sở điều trị và giám sát tâm thần để được chữa trị và phục hồi sức khỏe.
- Miễn trách nhiệm hình sự là một hình thức giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội vì một số lí do chính đáng, ví dụ như tự vệ, bảo vệ lợi ích chung. Trong trường hợp này, người phạm tội không bị kết án về hành vi phạm tội do mình gây ra, nhưng vẫn sẽ phải chịu trách nhiệm về các hậu quả pháp lý của hành vi của mình.
Vì vậy, sự khác biệt giữa loại trừ trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự là trong trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, người phạm tội không bị kết án, còn trong trường hợp miễn trách nhiệm hình sự, người phạm tội có thể bị kết án về hình vi phạm tội do mình gây ra, nhưng được giảm nhẹ trách nhiệm pháp lý.
Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành. Mọi vướng mắc chưa rõ hoặc có nhu cầu hỗ trợ vấn đề pháp lý khác, quý khách vui lòng liên hệ với bộ phận luật sư tư vấn pháp của Luật Ánh Ngọc qua điện thoại: 0878.548.558 hoặc email: ^email để được hỗ trợ và giải đáp thắc mắc nhanh chóng. Rất mong nhận được phản hồi từ Quý khách hàng. Cảm ơn quý khách hàng đã quan tâm theo dõi bài viết của Luật Ánh Ngọc.