Thưa luật sự, anh tôi 24 tuổi và chị dâu tôi 23 tuổi đã tổ chức hôn lễ vào năm 2021. Tuy nhiên, cho đến nay khi đã có với nhau 1 đứa con nhưng vẫn chưa đăng ký kết hôn. Hiện nay, tôi nghe được nhiều ý kiến khác nhau về việc này, có người nói rằng không cần phải đăng ký kết hôn, có người lại bảo phải đi đăng ký kết hôn để đảm bảo quyền lợi của cả hai bên. Vậy tôi mong Công ty Luật Ánh Ngọc giải đáp thắc mắc này cho tôi.
1. Trường hợp nào bị coi là nam, nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
Hôn nhân là mối quan hệ của vợ chồng sau khi kết hôn. Việc đăng ký kết hôn là rất quan trọng vì đó là cơ sở để pháp luật thừa nhận và bảo vệ quan hệ vợ chồng hợp pháp.
Tuy nhiên, trên thực tế có rất nhiều cặp vợ chồng sống chung với nhau nhưng không đăng ký kết hôn, theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, trường hợp này được hiểu là khi nam, nữ có đầy đủ các điều kiện để kết hôn theo pháp luật đã đến chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền. Vì vậy, theo mục 3 của Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP thì họ không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu một trong các bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn, thì Toà án thụ lý vụ án để giải quyết và áp dụng điểm c khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc hội, khoản 1 Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng; nếu họ có yêu cầu về nuôi con và chia tài sản, thì Toà án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết theo thủ tục chung.
Như vậy, có thể thấy từ những quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình ở nước ta từ trước đến nay vẫn luôn khuyến khích việc đăng ký kết hôn giữa các bên nam nữ sống chung với nhau và là cơ sở pháp lý để giải quyết những khó khăn, vướng mắc gặp phải khi các vấn đề liên quan đến mối quan hệ hôn nhân này có tranh chấp.
2. Việc nam nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn có vi phạm pháp luật không?
Để xác định việc nam nữ sống chung với nhau như vợ mà không đăng ký kết hôn có vi phạm pháp luật không thì ta cần xác định trên những cơ sở là việc giải quyết vấn đề này theo quy định tại Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình và theo Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP như sau:
Thứ nhất, về quan hệ hôn nhân: Căn cứ theo Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP, có thể xác nhận, không phải trong mọi trường hợp các trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng đều không được pháp luật công nhận, cụ thể như sau:
+ Đối với trường hợp nam và nữ mặc dù không thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn nhưng lại sống chung với nhau như vợ chồng từ thời điểm trước ngày 3/1/1987 thì quan hệ của họ vẫn được pháp luật thừa nhận là vợ chồng ngay từ thời điểm họ chung sống với nhau. Do đó, nếu hai bên không chung sống với nhau nữa và có yêu cầu ly hôn thì Tòa án sẽ tiến hành thụ lý và giải quyết theo quy định.
+ Nếu như nam và nữ có mối quan hệ sống chung với nhau bắt đầu từ thời điểm 3/1/1987 cho đến trước ngày 1/1/2001 thì theo quy định họ có thời gian 2 năm (từ 1/1/2001 đến 1/1/2003) để đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn. Nếu như sau thời gian này họ không thực hiện việc đăng ký kết hôn thì mối quan hệ của họ sẽ không được pháp luật thừa nhận là quan hệ vợ chồng hợp pháp.
+ Riêng đối với những trường hợp quan hệ sống chung như vợ chồng của nam nữ bắt đầu từ thời điểm ngày 1/1/2001 đến nay mà không có đăng ký kết hôn thì đều không được pháp luật công nhận.
Vậy việc anh chị của bạn bắt đầu chung sống với nhau từ năm 2021 thì không được pháp luật công nhận mối quan hệ vợ chồng này.
Xem thêm>>: Đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài ở đâu?
Thứ hai, về các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái trong trường hợp này:
Theo quy định tại Điều 15 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, dù quan hệ hôn nhân của nam, nữ chung sống với nhau không được pháp luật thừa nhận thì quan hệ giữa họ với con cái cũng vẫn được pháp luật bảo vệ bởi con cái sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ. Do đó đối với anh chị của bạn mặc dù không đăng ký kết hôn nhưng cũng sẽ không làm ảnh hưởng đến các quyền cũng như trách nhiệm của họ đối với con của mình. Họ vẫn có thể thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình đối với con như chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con,..
Thứ ba, về giải quyết các vấn đề liên quan đến hợp đồng, tài sản của nam nữ chung sống với nhau không đăng ký kết hôn.
Trong trường hợp trong quá trình chung sống với nhau, giữa nam và nữ hình thành những tài sản chung với nhau hay có những hợp đồng liên quan do cả hai bên cùng thực hiện thì về mặt nguyên tắc, pháp luật đều ưu tiên giải quyết trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên (Theo quy định tại Điều 16 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014). Tuy nhiên, nếu các bên không tự thỏa thuận được, việc giải quyết sẽ được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Từ các quy định trên cho thấy, nếu như cả hai người đáp ứng được điều kiện kết hôn, không thuộc trường hợp cấm kêt hôn quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 mà sống chung với nhau thì được coi là nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng và không trái với pháp luật, tuy nhiên, giữa hai người không phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng, khi thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.
3. Hậu quả của việc nam nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn và việc giải quyết hậu quả
Hậu quả của việc sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn là hôn nhân của họ không được pháp luật công nhận, không phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng, việc chia tài sản chung, tài sản riêng trong quá trình chung sống không được giải quyết theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình áp dụng đối với quan hệ hôn nhân hợp pháp.
Việc giải quyết hậu quả của việc nam nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thực hiện như sau:
Trường hợp một, nếu một hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn:
- Họ phải chấm dứt việc sống chung như vợ, chồng.
Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ với con chung được giải quyết theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con. Theo đó, hai bên có thể thỏa thuận người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi chấm dứt việc sống chung (nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dạy,..., quyền được thăm con,...) đôi với con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình; nếu hai bên không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải hỏi nguyện vọng của con muốn sống với ai; con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện hoặc có thỏa thuận khác giữa cha mẹ phù hợp với lợi ích của con hơn.
Xem thêm>>: Sau khi ly hôn, ai sẽ là người nuôi con?
- Về quan hệ tài sản, nghĩa vụ hợp đồng: các bên sẽ thỏa thuận phân chia tài sản chung, tài sản riêng của hai người; nếu không có thỏa thuận thì xác định như sau: tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo thỏa thuận, nếu không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được thì một trong các bên có thể yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 là chia theo mức đóng góp và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con, công việc nội trợ khác có liên quan đến duy trì cuộc sống chung được coi như lao động có thu nhập (Điều 16 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014)
Trường hợp 2, hai bên thực hiện việc đăng ký kết hôn:
Nhà nước ta luôn khuyến khích các bên sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thực thiện thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn theo quy định của Luật này và Luật hộ tịch. Khi đó quan hệ hôn nhân của họ được pháp luật công nhận và xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.
Việc các bên đăng ký kết hôn là cơ sở để pháp luật thừa nhận và bảo vệ quan hệ vợ chồng hợp pháp, làm phát sinh mối quan hệ hôn nhân và quyền, nghĩa vụ của vợ chồng trong hôn nhân, khi đó các bên có trách nhiệm hơn trong việc xây dựng gia đình hạnh phúc của mình và cũng là cơ sở pháp lý để giải quyết những khó khăn, vướng mắc gặp phải khi các vấn đề liên quan đến mối quan hệ hôn nhân này có tranh chấp.
4. Nam, nữ có bị xử phạt vi phạm hành chính không?
Theo quy định của Nghị định số 82/2020/NĐ-CP thì đối với quan hệ hôn nhân và gia đình, các trường hợp bị xử phạt vi phạm hành chính gồm hành vi tảo hôn, tổ chức tảo hôn; Hành vi vi phạm quy định về kết hôn, ly hôn và vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng; Vi phạm quy định về sinh con, về giám hộ, về nuôi con nuôi. Trong đó không có quy định nào về xử phạt vi phạm hành chính khi hai bên sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.
Vì vậy, Nhà nước không xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi này của hai bên nam nữ, mà khuyến khích họ đi đăng ký kết hôn.
Vậy là, với việc sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn của anh chị bạn thì không vi phạm pháp luật mà Nhà nước cũng không buộc họ phải đi đăng ký kết hôn mà khuyến khích họ đi đăng ký. Vì vậy, Công ty Luật Ánh Ngọc tư vấn trường hợp này nên đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để đăng ký kết hôn, khi kết hôn là hợp pháp các bên sẽ được pháp luật bảo vệ quyền, lợi ích của mình trong hôn nhân đồng thời trường hợp xảy ra tranh chấp có cơ sở để giải quyết thei quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.
Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành. Mọi vướng mắc chưa rõ hoặc có nhu cầu hỗ trợ vấn đề pháp lý khác, quý khách vui lòng liên hệ với bộ phận luật sư tư vấn pháp của Luật Ánh Ngọc để được hỗ trợ và giải đáp thắc mắc nhanh chóng. Rất mong nhận được phản hồi từ Quý khách hàng. Cảm ơn quý khách hàng đã quan tâm theo dõi bài viết của Luật Ánh Ngọc.