Những trường hợp nào sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự?


Những trường hợp nào sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự?
Để đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội của đất nước thì Nhà nước ta đã đưa ra các quy định về xử phạt những hành vi vi phạm. Những trường hợp vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng hơn thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

1. Như thế nào được coi là vi phạm hình sự ?

Chúng ta có thể thấy rằng, xã hội đang phát triển, và cùng với sự phát triển này, các hình thức tệ nạn xã hội cũng đang gia tăng, đặc biệt là các loại tội phạm nguy hiểm. Những tội phạm này thường hoạt động có tổ chức, tụ tập thành các băng đảng hoặc nhóm tội phạm, thực hiện các hành vi tinh vi và xảo quyệt. Ngoài ra, tội phạm cũng có thể vượt quốc gia và có tính chất quốc tế, làm cho việc kiểm soát chúng trở nên ngày càng khó khăn. Tất cả những hành động này đóng góp vào hình thức vi phạm pháp luật hình sự.

Pháp luật hình sự không đưa ra định nghĩa cụ thể về vi phạm hình sự. Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu vi phạm hình sự là hành vi có tính nguy hiểm đối với xã hội, đây là hành vi có tính chất xâm phạm đến các quan hệ được bảo vệ bởi pháp luật hình sự giữa Nhà nước và người phạm tội.

Hành vi này có thể được thực hiện cố ý hoặc không cố ý, và có thể xâm phạm đến các quan hệ độc lập, chủ quyền, chế độ kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Tuy nhiên, không phải mọi hành vi vi phạm đều được coi là vi phạm hình sự và phải chịu trách nhiệm hình sự. Điều này phụ thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi đó. Hành vi vi phạm hình sự có thể được phân loại thành các mức độ khác nhau, cụ thể như sau: 

  • Vi phạm có tính ít nghiêm trọng;
  • Vi phạm có tính nghiêm trọng;
  • Vi phạm có tính rất nghiêm trọng;
  • Vi phạm có tính đặc biệt nghiêm trọng.

 

Như thế nào được coi là vi phạm hình sự ?
Như thế nào được coi là vi phạm hình sự ?

2. Những hành vi vi phạm bị truy cứu trách nhiệm hình sự?

Người vi phạm hình sự trước hết phải chịu trách nhiệm theo luật. Trách nhiệm hình sự là một loại trách nhiệm pháp lý, bao gồm nghĩa vụ phải chịu hậu quả của việc bị kết án, phải tuân thủ các biện pháp truy cứu trách nhiệm hình sự như: án phạt, biện pháp tư pháp và phải gánh chịu hậu quả của việc bị kết án tù theo quy định của pháp luật. 

Trách nhiệm hình sự được xác lập trong trường hợp sau:

- Chủ thể vi phạm có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật.

- Chủ thể đã thực hiện hành vi là tội phạm trong luật hình sự.

- Trách nhiệm hình sự không những bao gồm nghĩa vụ của người vi phạm tội mà còn đòi hỏi tôn trọng quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan: Cụ thể như Nhà nước đóng vai trò thực hiện trách nhiệm hình sự và người phạm tội chịu trách nhiệm hình sự.  Trong đó, Nhà nước có quyền truy cứu, xét xử và buộc người vi phạm tội phải chịu hình phạt thích đáng.

Người vi phạm tội có nghĩa vụ phải chịu hình phạt trong đó việc truy cứu trách nhiệm hình sự, của các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước và có quyền yêu cầu Nhà nước bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Trách nhiệm hình sự có thể bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo, không giam giữ, tù có thời hạn, tù chung thân, và tử hình. Ngoài những hình phạt trên, còn có thể áp dụng một hoặc nhiều hình phạt bổ sung như cấm đảm nhận các chức vụ, nghề nghiệp hoặc công việc cụ thể; cấm cư trú; hạn chế quyền công dân, tước danh hiệu quân nhân, và tịch thu tài sản. Phạt tiền có thể được xem xét như một trong những hình phạt chính.

Như vậy, ngoại trừ các trường hợp được miễn hoặc loại trừ truy cứu trách nhiệm hình sự, thì tất cả hành vi vi phạm pháp luật đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

3. Những trường hợp không phải chịu trách nhiệm hình sự

Trong Bộ luật hình sự năm 2015, có các trường hợp mà người không phải chịu trách nhiệm hình sự. Các trường hợp này được cụ thể hóa như sau:

 

Những trường hợp không  phải chịu trách  nhiệm hình sự
Những trường hợp không phải chịu trách nhiệm hình sự

- Người che giấu tội phạm và là người thân như ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội sẽ không chịu trách nhiệm hình sự về tội che giấu tội phạm, trừ trường hợp tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng (Khoản 2 Điều 18 Bộ luật hình sự năm 2015).

- Người không tố giác tội phạm và là người thân như ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội sẽ không chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm, trừ trường hợp tội quy định tại Chương XIII hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng (Khoản 2 Điều 19 Bộ luật hình sự năm 2015).

- Người không tố giác và là người bào chữa không chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm, trừ trường hợp tội quy định tại Chương XIII hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng do người mà họ bào chữa thực hiện hoặc đã thực hiện và người bào chữa biết rõ khi bào chữa (Khoản 3 Điều 19 Bộ luật hình sự năm 2015).

- Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội mà không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự (Điều 20 Bộ luật hình sự năm 2015).

- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của họ sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự (Điều 21 Bộ luật hình sự năm 2015).

- Người thực hiện hành vi để bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của họ, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước hoặc cơ quan tổ chức và chống trả lại một cách cần thiết người đang xâm phạm các lợi ích nói trên (gọi là phòng vệ chính đáng) không phải chịu trách nhiệm hình sự (Điều 22 Bộ luật hình sự năm 2015).

- Người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết để tránh gây thiệt hại lớn hơn cho quyền, lợi ích hợp pháp của họ, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước hoặc cơ quan tổ chức (gọi là tính thế cấp thiết). Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm nên không phải chịu trách nhiệm hình sự.

- Người thực hiện hành vi để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm và không phải chịu trách nhiệm hình sự (Điều 24 Bộ luật hình sự năm 2015).

- Người thực hiện hành vi gây ra thiệt hại trong khi thực hiện nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, và áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa thì không phạm tội nên không phải chịu trách nhiệm hình sự (Điều 25 Bộ luật hình sự năm 2015).

- Người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 421, khoản 2 Điều 422 và khoản 2 Điều 423 của Bộ luật hình sự (Điều 26 Bộ luật hình sự năm 2015).

Như vậy, trên đây là các trường hợp trên sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định. 

4. Quy định pháp luật về tuổi chịu trách nhiệm hình sự

Dựa vào quy định của Điều 12 trong Bộ luật hình sự năm 2015, chúng ta có thể khẳng định rằng độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:

- Đối với người từ 16 tuổi trở lên, họ sẽ chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi tội phạm, bao gồm cả tội cố ý và tội vô ý, tội phạm từ ít nghiêm trọng đến rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng (trừ trường hợp Bộ luật hình sự quy định rằng chủ thể của tội phạm đó phải từ 18 tuổi trở lên). Tuy nhiên, đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, họ sẽ được áp dụng chính sách hình sự giảm nhẹ theo quy định của Chương XII trong Bộ luật hình sự năm 2015.

- Đối với người từ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi, họ chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, được quy định tại một số điều luật đã giới hạn tại khoản 2 của Điều 12 trong Bộ luật hình sự năm 2015

- Người từ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi, khi chuẩn bị phạm tội, chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm 02 tội danh cụ thể được quy định tại Điều 123 và Điều 168 trong Bộ luật hình sự năm 2015.

So sánh với quy định tại khoản 2 của Điều 12 trong Bộ luật hình sự năm 1999, Bộ luật hình sự năm 2015 đã thu hẹp đáng kể số lượng tội danh mà người từ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự (28/314 tội danh). Họ chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm 02/314 tội danh cụ thể như đã được phân tích ở trên.

Quyết định này dựa trên sự cân nhắc không chỉ về tính chất và mức độ nguy hiểm đối với xã hội của hành vi mà còn xem xét tính phổ biến của hành vi phạm tội do người trong độ tuổi này thực hiện trong thời gian gần đây và dự báo trong tương lai.

Xem thêm bài viết: Có bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi chơi đá gà có cá cược không?

 

Quy định pháp luật về tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Quy định pháp luật về tuổi chịu trách nhiệm hình sự

Bài viết trên đây nói về chủ vi hành vi nào thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự Để biết thêm các thông tin và được tư vấn chuyên sâu, hãy liên hệ tới Luật Ánh Ngọc để được hỗ trợ và giải quyết kịp thời.

Luật sư Phương

Luật sư Phương

Đã kiểm duyệt nội dung

Tốt nghiệp đại học Luật Hà Nội. Có hơn 10 kinh nghiệm công tác trong ngành luật. Hiện đang là giám đốc kiêm luật sư chính của Luật Ánh Ngọc.

Xem thêm thông tin

Bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, người viết áp dụng các quy định của pháp luật tại thời điểm nghiên cứu viết bài. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, vui lòng Liên hệ trực tiếp với chúng tôi.